Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

giá một cái hôn - truyện ngắn đỗ ngọc thạch


Thứ tư, ngày 29 tháng năm năm 2013

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Giá một cái hôn

truyện ngắn đỗ ngọc thạch truyện ngắn đỗ ngọc ...

... - Giá một cái hôn - Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Giá một cái hôn



Tin tức > Đỗ Ngọc Thach - trong nước

1.ĐẢ LONG BÀO

Chuyện xưa, có ông Vua nọ phạm tội phải bị đánh trăm gậy, Vua muốn làm gương cho thiên hạ, nói với Thừa tướng cứ theo phép nước mà làm. Thừa tướng không dám đánh vua, bèn nghĩ ra kế “Đả Long bào”, tức lấy Long bào của Vua ra sai lính đánh trăm gậy. Mọi người ai cũng khen Thừa tướng xử lý giỏi. Lần khác, Vua phạm vào tội đáng chém đầu, sai Thừa tướng cứ làm theo Luật pháp. Thừa tướng sai người làm một con Rồng bằng giấy bồi, sơn son thếp vàng đẹp hơn Rồng thật, rồi sai đao phủ chém đầu con Rồng đó, gọi là “Trảm thủ Rồng”. Ai cũng khen Thừa tướng tài giỏi, Vua thưởng cho tiền bạc, Lụa là không biết bao nhiêu mà kể.

Xem chi tiết

“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê…”, biết là như thế, vậy mà khi đi dạo quanh Hồ Gươm, thấy có ai đang nói chuyện với nhau, tôi cũng đi sát họ và dỏng tai nghe xem họ có bàn chuyện Vua Lê hay không? Đó là thói quen thứ nhất và không hề mất đi của tôi.

Thói quen thứ hai là đã đến Hồ Gươm thì động tác đầu tiên là ngó nhìn xuống mặt hồ xem Rùa có nổi lên hay không? Nếu có thì reo lên rồi chỉ chỏ kêu người đứng gần tới xem, còn nếu không có thì chốc chốc lại ngó xuống mặt hồ tìm kiếm. Thói quen này cũng không hề mất đi.
Xem chi tiết

1. Giáo đầu

Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng! Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác… ngồi Thiền!

Xem chi tiết

1. Ngày…tháng …năm

Hôm nay mình phải đưa ra một quyết định quan trọng: Đi hay ở? Mình vụt nhớ đến một câu thơ rất hay khi thể hiện tâm trạng này, được ghi trong sổ nhật ký của mẹ: “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước / Chọn một dòng hay để nước trôi?” Mẹ ơi, phải chi mẹ đừng bỏ chúng con mà đi theo người đàn ông ấy, mà sao mẹ đi xa thế, tận Paris, cho dù đó là “Thủ đô ánh sáng” cũng không thể thu hút mẹ mãnh liệt như vậy?
Xem chi tiết

I. TUỒNG VÀ CHÈO

1. Tuồng và Chèo là hai loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống đậm nét bản sắc dân tộc nhất của nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Tuồng thiên về Dương tính: thể hiện tính Bi hùng của cuộc sống là sở trường của Tuồng. Chèo thiên về Âm tính: thể hiện tính Nhân bản của cuộc sống là sở trường của Chèo. Trải qua bao cơn biến thiên, tưởng như có lúc Tuồng bị xếp vào Kho Lưu trữ của Bảo Tàng Sân khấu, chèo bị đuổi về góc chiếu nơi sân đình thôn quê!...Nhưng, những người say đắm, tâm huyết với Tuồng và Chèo không hề suy giảm, công chúng sân khấu không phải đã hoàn toàn lạnh nhạt với Tuồng và Chèo. Và, như là một tất yếu, các Nhà Hát Tuồng và Nhà Hát Chèo vẫn rực rỡ ánh đèn, dù chỉ có một vài khán giả vẫn diễn!...
Xem chi tiết

Truyện thứ nhất: BĂNG NHÂN

Trần Mai trở thành Băng nhân (*) chuyên nghiệp sau một lần làm mai mối bất đắc dĩ nhưng đã đạt kết quả rất mỹ mãn. Đó là vào những ngày hòa bình đầu tiên của đất nước sau bao nhiêu năm dài chiến tranh khốc liệt. Anh lính Trần Mai từ Miền Nam giải ngũ về nhà với đôi chân không còn nguyên vẹn. Vì thế, gia đình cô Đào cương quyết không cho anh cưới cô Đào như đã ước hẹn, mặc dù cô Đào vẫn sẵn lòng chấp nhận dù Trần Mai đã bị mất một chân. Trần Mai nghĩ mãi không ra cách để thuyết phục cha mẹ cô Đào thì anh lại phải lo chữa chạy cho cả song thân, bởi cha mẹ Trần Mai lo nghĩ chuyện lấy vợ cho con mà bế tắc nên cùng buồn phiền sầu não mà thành bệnh.

Xem chi tiết

Ông Trung Dũng đã là cán bộ giảng dạy ở một trường đại học nhưng sau khi bọn Mỹ đánh bom B52 xuống Hà Nội thì có đợt tuyển quân rất lớn, ông Dũng nhập ngũ vào đợt đó.
Ông Dũng tuy đã gần ba mươi tuổi nhưng vẫn chưa lấy vợ vì hai lý do: phụng dưỡng mẹ già (gần bảy mươi) và chờ lấy được cái bằng Tiến sĩ! Nhưng sau khi nhập ngũ, lương cán bộ giảng dạy bị thay bằng phụ cấp của anh binh nhì, khiến cho cuộc sống của người mẹ già gặp khó khăn. Xem chi tiết

Tôi nhập ngũ tháng 12 năm 1966, vào Binh chủng Ra-đa, khi đang là sinh viên Khoa Toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (lúc đó đang sơ tán ở Đầm Mây, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Tháng 10 năm 1970, tôi lại trở về học lại Khoa Toán, trường ĐHTH Hà Nội (lúc đó đang ở cơ sở chính tại Khu Thượng Đình, Hà Nội). Tuy chỉ gần bốn năm tại ngũ, nhưng kỷ niệm đầy ắp và mỗi khi tháng 12 đến, tôi lại như là đi ngược thời gian trở về những năm tháng ấy… Xem chi tiết

BẠN HỌC LỚP BỐN

1.Mười năm học ở trường phổ thông, tôi đã chuyển lớp tới 11 lần, nếu tính tên trường thì là Mười trường, phải nói đó là con số kỷ lục về cái sự chuyển trường! Lý do đơn giản là do bố tôi thuyên chuyển công tác, từ tỉnh này sang tỉnh khác (sau này ra đời làm việc, tôi cũng làm việc ở rất nhiều cơ quan, không biết có phải đó là di truyền không?). Việc chuyển trường nhiều như vậy khiến cho tôi có rất nhiều bạn học và có một điều kỳ lạ là cứ mỗi năm vào mùa hoa phượng nở, thật ngẫu nhiên, tôi gặp một, hai bạn học cũ, và lẽ đương nhiên là tôi được sống lại tuổi học trò!...Truyện ngắn này viết về việc gặp lại bạn học lớp Bốn!
Xem chi tiết

CHUYỆN CỦA NHÀ ĐỊA CHẤT

1. Tôi có anh bạn học cùng phổ thông, tên là Đông, sau học trường mỏ địa chất, ra trường được phân công về một đoàn Địa Chất chuyên đi thăm dò mỏ! Sau gần chục năm mới gặp lại nhau, lại ở nơi rừng xanh núi bạc, tình cảm thật xúc động muôn phần. Chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, cuối cùng Đông nói: “Vậy là tao với mày cùng nghề rồi nhé!” Tôi ngạc nhiên định hỏi lại tại sao lại nói vậy thì Đông như đọc được ý nghĩ của tôi, cười nói: “Mày đi sưu tầm văn học dân gian thì có khác gì chúng tao đi tìm mỏ...


Chuyển đến trang 123  [sau]
 Xem chi tiết


Tin tức > Đỗ Ngọc Thach - trong nước
Vài nét về tác giả: Nhà văn Đỗ Ngọc Thạch sinh ngày: 19 -5 - 1948. Quê: Phú Thọ. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội 1976 . Đã kinh qua: Bộ đội Rađa, Giáo viên, Cán bộ nghiên cứu Viện Văn học, Biên tập viên Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, Báo Lao động Xã hội, Phụ trách Ban Biên tập Tạp chí Văn Nghệ GiaLai - Kon Tum, v.v... Viết nhiều thể loại: Phê bình Tiểu luận, Truyện ngắn, Thơ. Sách đã in: Quà tặng tuổi Hai mươi (Tập truyện ngắn - NXB Công an Nhân dân: Bản in năm 1994 gồm 8 truyện; Bản in năm 2005 gồm 26 truyện). Hiện sống tại TP.HCM. NBĐ đã đăng một số truyên của tác giả như: Bạn học lớp hai, Lấy vợ xấu. Xin giới thiệu với bạn đọc thêm một truyện khác của nhà văn: Giá một cái hôn. Xem chi tiết
Chuyển đến trang [trước]  123

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Tượng Nhà Mồ - Đỗ Ngọc Thạch




Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Tượng Nhà Mồ

Web Results

ĐỖ NGỌC THẠCH

 TƯỢNG NHÀ MỒ


Đến Tây Nguyên, tôi bị thu hút vào “những nỗi đau đã hóa đá” – những bức tượng nhà mồ hình người ôm mặt đau khổ, có ở rất nhiều nơi trên vùng đất Gia Lai – Kon Tum này. Và rồi cơn gió lành đã đưa đến cho tôi một ông phó tiến sĩ nghệ thuật học hẳn hoi, cũng mê cái đề tài nghiên cứu này. Thế là chúng tôi bắt tay nhau, tiến vào những bát trận đồ bí ẩn…
      Nếu như ông bạn phó tiến sĩ nghệ thuật học của tôi, theo bản năng nghề nghiệp, quan tâm đến những mảng khối, động thái, mô-típ, phong cách này nọ của những pho tượng , thì tôi lại quan tâm nhiều đến điều khác, ở ngoài khu vực nhà mồ, đó là người tạc tượng nhà mồ - tác giả của những pho tượng. Vì sao họ tạc tượng ? Họ suy nghĩ gì khi làm ra những tiếng nói bằng gỗ ấy ? Vì thế, trong khi ông bạn tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, rồi say sưa đo đạc, quan sát, chụp ảnh…thì tôi đi lùng sục trong buôn làng để tìm cho ra tác giả của những pho tượng. Song, qua bao nhiêu khu tượng nhà mồ, tôi đều thất vọng, vì tôi chỉ tìm thấy những người làm theo mẫu có sẵn, kiểu như những người thợ gỗ, chứ không phải là tác giả đích thực, theo như quan niệm của tôi.
       Song, chính vào thời điểm tôi thất vọng gần như hoàn toàn thì tôi đã tìm ra .
Hôm ấy, chúng tôi đến một làng người Gia Rai, gặp một khu nhà mồ, còn khá mới và rất nhiều tượng. Ông bạn của tôi lao vào chụp ảnh, đo đạc, ngắm nghía như người ghiền gặp cuộc nhậu…Trời nắng và nóng quá, tôi đứng dưới một tán cây, ngắm nhìn khu nhà mồ và suy nghĩ miên man về những cái chết của con người…       - Này ! Nghĩ gì mà đứng nghệt ra như tượng thế ?- Hiên, người hướng đạo, vỗ bộp vào lưng tôi và cười khậc khậc ! Tôi giật mình và chưa kịp định thần thì tóc gáy đã dựng ngược khi nhìn thấy một con sâu kỳ lạ, to đùng, lông tua tủa đang bò trên cánh tay áo ! Tôi chưa kịp hết cơn sợ hãi (tôi vốn rất sợ loài sâu bọ) thì Hiên đã nhẹ nhàng nhón con sâu khỏi tay áo tôi, gói vào một mảnh giấy, bật quẹt châm lửa đốt. Khi ngọn lửa vừa tắt, Hiên tung cái xác con sâu từ bàn tay nọ qua bàn tay kia, thổi phù mấy cái rồi ném gọn vào mồm nhai ngon lành trước sự khiếp đảm của tôi.
       - Thuốc bí truyền đấy ! – Hiên nói tỉnh khô – Loại sâu này ăn một thứ búp lá đặc biệt và chế ra một loại thuốc quý, còn hơn cả “cường lực đại bổ”, “sâm qui tinh” vì nó còn có thể chữa bách bệnh !
       - !?
       - Ông không tin à ? Sao ông cứ nhìn tôi như một tên mọi thế ! Này, xin báo cho ông biết, thuốc này còn gọi là “kháng sinh thực vật”, hiệu nghiệm hơn cả Pê-ni-xi-lin, cả lanh-cô-xin nữa đấy nhé. Khì ! Khì !...- Hiên cười tít mắt – Cái gì ông cũng tròn xoe mắt ra thế kia thì có ngày con ma-lai nó nuốt chửng ông đấy ! Phải thổ công như tôi đây này !
       Hiên còn luyên thuyên gì nữa mà tôi nghe không rõ vì lúc thì anh ta xen tiếng dân tộc, lúc xen tiếng Tây bồi, hoa chân múa tay tít mù, cứ như là thầy phù thủy.
       Hiên có khuôn mặt và hình thể khó tả : không già không trẻ ,không béo không gầy, đôi lúc có vẻ bí ẩn, xa xôi .Điệu bộ của Hiên lúc thì trịnh trọng, thoắt cái đã rất nhắng nhít, liến thoắng như người bán thuốc rởm ở bến xe ô tô. Theo như lời tự giới thiệu. Hiên vốn là cán bộ thông tin xã (chuyên cầm loa đi đọc tin thời sự, vận động bà con ăn chín uống sôi, làm hố xí hai ngăn…), nhập ngũ rồi đi B. Làm đủ việc, bách nghệ, nhưng chưa bao giờ cầm súng bắn giặc ! Thế rồi Hiên cũng leo lên lon thiếu úy, chính trị viên phó đại đội, rồi trợ lý tuyên huấn trung đoàn, sư đoàn. Sau giải phóng 75, do tỉnh thiếu cán bộ văn hóa thông tin, Hiên chuyển ngành làm trưởng phòng văn nghệ. Nhờ có “năng khiếu” ca dao, hò vè và nhanh mồm, mau miệng, tích cực đi nói chuyện thời sự khắp các ban, ngành trong tỉnh, chẳng mấy chốc lên phó giám đốc Sở. Đang chuẩn bị lên chức chánh thì đùng một cái “phốt” khá nặng : sau khi xin cho một cô bé vào làm việc ở Sở, Hiên “bồ bịch” làm cô bé có thai, nạo thai, không may bị chết !). Hiên bị cách chức xuống làm cán bộ cấp huyện, nhân có đợt tăng cường cấp huyện. Lại mắc “phốt”. Hiên xuống làm cán bộ văn hóa thông tin xã ở cái xã này cho đến lúc gặp chúng tôi.
      - Ông ạ ! Người ta sinh ra từ cát bụi, rồi lại trở về cát bụi, ai nói thế chí lý thật ! – Hôm mới tiếp xúc với tôi, sau khi tâm sự lịch sử trường đời, Hiên nói – Tôi vốn bước vào trường đời bằng cái loa, bây giờ lại trở về với cái loa. Chỉ có khác là cái loa “xì-te-ri-ô” bây giờ hiện đại lắm …Thỉnh thoảng mở nhạc “đít cô” nghe cũng vui, quên đời !...Nhiều lúc buồn, ngồi ngẫm nghĩ sự đời cũng thấy ân hận, xót xa ! Loài sâu bọ, nhìn tởm thế mà còn có ích. Còn mình thì…Tội của mình đáng chết chém mà chỉ tụt bậc, thế là phúc lớn bằng cái đình rồi ! Nghĩ kỹ, mình thất học, ngu dốt, chỉ quen sống mồm miệng đỡ chân tay mà bổng lộc cao sang, cao lương mỹ vị nếm đủ cả, còn đòi hỏi gì nữa ? Thú thật với ông , mới nhìn thấy tôi bố nhắng thế, chứ tôi sống nội tâm lắm !...
      - ! ?
      - Đó là sau khi tôi tỉnh ngộ ra, nhờ được biết nguồn gốc của cái tượng nhà mồ đau khổ kia. Từ ấy, tôi luôn bị ân hận, day dứt hai điều : đã không tìm được chỗ đứng thích hợp trong cuộc sống. Và, chính từ đó đã dẫn đến điều thứ hai : thành kẻ giết người !...Con người ta được thanh lọc khi cảm nhận bị kịch xót xa ! Nhà văn các ông thường nói thế là gì ? Rồi tôi sẽ kể cho ông nghe, và có thể phải nhờ ông một việc…
      Tôi đang bồng bềnh trong những ý nghĩ về Hiên, về sự thăng trầm, biến đổi của đời người thì “bộp”, một con sâu giống hệt con ban nãy lại rơi xuống tay áo tôi. Tôi chưa kịp sởn gai ốc thì đã thấy con sâu vàng ươm, thơm ngậy nằm trên bàn tay xương xẩu của Hiên ! Hiên chìa con sâu nướng vào mặt tôi nói tỉnh khô :
      - Ông ăn đi ! Ông được “sâu sa” là gặp hên đó ! Loài sâu này là nhà luyện đan tài tình. Tôi quí ông mới bày cho ông ăn, không những không chết mà còn trường sinh bất lão ! Biệt dược Tây Nguyên đấy !
      Trước đây, tôi đã từng bị ép nuốt thạch sùng, nhái bén để chữa bệnh, cho nên, như có phản xạ tự nhiên của người luôn bị bệnh tật đe dọa, tôi há mồm để Hiên ném nhẹ con sâu vào mồm, lại nghĩ đến chùm lông tua tủa của con sâu cứ uốn lượn khi nó bò trên tay áo, tôi định nhắm mắt nuốt thì “Ọe… ! Ọe…Ộc !...”        Khi tỉnh lại, thấy thần kinh thanh thản thì nhận ra mình đang nằm trên thảm cỏ, kề bên là hai máng nước đang chảy óc óc…roạt roạt !... Thì ra Hiên đã đưa tôi đến bến nước. Thấy tôi đã tỉnh, Hiên vỗ tay cười và nói vui vẻ .
      - Ông bị rối loạn tiền đình ! Cũng có khả năng rối loạn tiêu hóa và cả rối loạn kinh mạch nữa ! Nhưng đã nôn được ra mật như thế là tốt ! Sau khi ông hết nôn, tôi đã nghiền vị thuốc đó với nước nguồn này cho ông uống, ông mới hồi tỉnh đấy chứ ! Thuốc bách bệnh mà lị !
       Nghe Hiên nói vậy, tôi lại cảm thấy như con sâu đầy lông đang bò trong cổ và chực nôn. Lập tức, Hiên nhét vào mồm tôi một quả gì đó bé tí và nói :       - Ông nhai đi và đừng nghĩ gì đến con sâu ấy nữa. Ông mắc bệnh tưởng rồi ! Rất tiếc là tôi không rành tâm thần học. Nhưng nhai quả đi và uống thêm ba ngụm nước nữa ông sẽ thấy than thản, như là thoát tục, liên tiên vậy !
       Nhìn mạch nước nguồn từ trong khe núi chảy ra, như là vô tận, tôi bị thôi miên vào nguồn nước ấy. Dòng nước ấy chảy ra từ đâu và sẽ dừng lại ở đâu ? Là nước mắt của núi rừng sao không bao giờ khô cạn ? Là niềm vui của con người sao chứa đựng bao tai họa bí ẩn ?... Không khí ở bến nước dịu mát đã nhanh chóng làm thần kinh tôi hưng phấn, tỉnh táo.
      - Bến nước này có lịch sử li kỳ lắm, rồi tôi sẽ kể cho ông nghe . Ở cái đất Tây Nguyên này có nhiều cái thú vị đối với cái nghề văn chương của các ông lắm. Bây giờ, tôi tranh thủ kể cho ông nghe về sự tích tượng nhà mồ. Xin thề với ông là chưa hề ai được nghe câu chuyện này. Chỉ với ông thôi – Hiên đột ngột đăm chiêu kỳ lạ - Thật đấy, chỉ với ông, tôi mới kể. Đó là cái tình cảm tri ngộ. Nhìn tướng ông, tôi kính nể ông lắm !...
Hồi ấy – Hiên kể - tôi được giao phụ trách một đội văn nghệ tổng hợp của sư đoàn. Tôi tuy nốt nhạc bẻ đôi không biết nhưng cái khoản ca dao, hò vè, tấu nói rồi hề cương thì không ai bằng. Với lại, tôi có cái tướng làm quan, tôi phụ trách ngon lành, đâu ra đấy. Đội văn nghệ của tôi rất có tín nhiệm với quân khu. Nhưng giờ nghĩ lại mới thấy hồi ấy mình làm ăn thật nhắng nhít ! Nhưng khốn nỗi, hồi ấy người ta quen xài mấy thứ tào lao ấy. Ông coi, lúc ấy, làm gì có thời gian mà bài bản, chính qui được. Với lại, chẳng ai kịp nghĩ đến mấy thứ cao sang, người ta thuộc lòng đầy bụng những tấu, “thơ Bút Tre” của tôi rồi còn gì !
       Một lần, đội văn nghệ xung kích chúng tôi đang hành quân thì chạm trán bọn phục kích. Thú thật với ông, tôi bị cái bệnh sợ tiếng nổ từ bé, nên khi nghe tiếng súng nổ là hồn vía lên mây ! Tôi chạy quáng quàng một hồi và khi biết mình đã lạc vào giữa mênh mông ngút ngàn thì chỉ thấy trơ thổ địa một mình mình . Phúc tổ là không sứt mẻ gì !
      Tôi cứ đi lang thang trong rừng, mặc cho muốn đến đâu thì đến. Tuy sợ, nhưng tôi yên tâm vì mấy ông chiêm tinh làng tôi nói : tôi thường gặp may, lại có quý nhân phù trợ, cứ bình chân như vại trước mọi nguy nan ! Tôi đã nghiệm thấy đúng lắm !...Khi tôi đến một khu rừng thưa thì trời đã tối. Trăng mọc sớm, treo lơ lửng ở một góc rừng. Hoang vắng rợn người, âm u, bí hiểm như là trong các phim thần thoại, ma quỷ ! Tôi đang loay hoay tìm chỗ mắc võng đánh một giấc cho đã thì nghe có tiếng người rì rầm, rì rầm, xen tiếng khóc thổn thức, tắc nghẹn ! Tôi lắng nghe…Và rồi tiếng nói vang lên, như là thoang thoảng trong gió, tịch mịch, nhưng rất rõ :
      - Ôi, Thần ông tượng ! Con xin cắn cỏ xin Thần ông tượng ra tay cứu khó phò nguy, cứu người mà con yêu quý nhất đời qua được cái chết nơi rừng sâu hoang vắng này !...Ơi !...
      Tôi nhẹ nhàng tiến đến phía có tiếng nói. Tôi căng mắt ra nhìn, tìm kiếm. Tiếng nói biến mất. Ánh trăng như sáng lên. Tôi vừa lách qua một khóm lá thì lặng người, bàng hoàng, sửng sốt : trước mắt tôi là một người đang ngồi bất động, chống tay lên má . Dưới ánh trăng huyền ảo, khuôn mặt ẩn hiện với những nét đau đớn huyền bí, xa xôi !...Cái khuôn mặt đau đớn ấy , càng nhìn càng dễ sợ !.
       Khi kịp bình tĩnh lại, tôi tính rút êm khỏi nơi này thì có bóng người động đậy ở ngay kề cái người ngồi chống cằm đau khổ và bí hiểm kia. Tôi chưa kịp nhìn rõ thì lại vang lên tiếng thổn thức, tắc nghẹn khi nãy. Và khoảng hai, ba phút kế tiếp thì tiếng khóc đột ngột thét lên, kinh hoàng tột độ !...
       Khuôn mặt Hiên thoáng biến sắc. Hiên lặng đi một hồi lâu rồi như bừng tỉnh, kể tiếp.
      -… Đấy, tôi chỉ nhớ rõ được đến như thế, cho đến khi tôi hoàn toàn tỉnh táo để quan sát được chính xác quang cảnh quanh mình lúc ấy. Đó là một khu nhà mồ của đồng bào Gia Rai, đã trở nên hoang vắng từ lâu lắm, chỉ còn sót lại một pho tượng người chống cằm đau khổ mà tôi nhìn thấy từ đầu. Còn ngồi bên cạnh tôi lúc này là Xuyến, một cây đơn ca của đội văn nghệ chúng tôi. Bên cạnh Xuyến là nấm mộ đơn sơ, mới đắp của Lai, một cây ghi-ta của đội. Xuyến đã nói vắn tắt tình hình như thế này : Đội chúng tôi chạm trán với một đại đội thám báo. Anh chị em đã chiến đấu rất dũng cảm (trừ tôi, ma dẫn lối quỷ đưa đường thế nào mà ngay từ tiếng súng nổ đầu tiên, đã “lạc” mất đơn vị !). Cả đại đội thám báo đã bị tiêu diệt nhưng bên ta, chỉ còn lại Lai (đã bị thương nặng) và Xuyến (cũng bị thương ở cánh tay phải). Và cho đến lúc này, chỉ còn lại tôi và Xuyến !
       Xuyến ngồi im lặng, như pho tượng kia, rất lâu. Tôi không biết nói gì, cũng ngồi im lặng nhìn Xuyến qua ánh trăng đã trắng đục vì sương đêm. Có lẽ cái cảnh ấy đã kéo dài, rất lâu. Có lúc, tôi cảm giác như Xuyến đã hóa thành pho tượng gỗ !...Thoáng một làn gió nhẹ khiến tôi lành lạnh. Có lẽ trời sắp sáng , phải chấm dứt tình trạng này. Nghĩ thế, tôi gọi khẽ :
      - Xuyến !...
       Xuyến vẫn ngồi im, bất động. Tôi xích lại gần, vỗ nhẹ vào vai Xuyến. Khi bàn tay tôi chạm bờ vai Xuyến, tôi có cảm giác như chạm vào sự ấm nóng , mềm mại lạ kỳ ! Một luồng điện như chạy nhanh trong người tôi !...Xuyến khẽ giật mình, quay lại nhìn tôi thảng thốt. Dưới ánh trăng, tôi chỉ còn nhìn thấy khuôn mặt bí ẩn, trắng ngần, tuyệt đẹp của Xuyến. Và, cái cúc áo ngực của Xuyến bị đứt từ bao giờ, để lộ ra phần trên của bộ ngực nở căng, nối với cái cổ cao, tạo nên một màu trắng mịn màng khiến tôi mê man. Xuyến bỗng ú ớ như nói cái gì, rồi bàn tay Xuyến, ấm nóng, nắm chặt lấy cánh tay tôi, thở gấp … Lại như có luồng điện phóng qua người tôi ! Tôi ngột thở. Tôi như chỉ còn nhìn thấy bộ ngực nở căng của Xuyến đang phập phồng . Rồi tôi cắm mặt vào bộ ngực ấy, cuồng dại…Khi tôi đã đè Xuyến xuống bãi cỏ, khi cơn nhục dục trong tôi sắp lên đến tột đỉnh thì, bỗng nhiên, tôi thấy như có vật gì giáng xuống đầu tôi đánh “đốp”…Tôi bị ngất đi !
       Khi tỉnh lại, tôi thấy trời đã sáng, còn mình thì bị trói giật cánh khỉ bằng sợi dây dù thít chặt. Xuyến đang ngồi gục bên mộ Lai, bất động. Cạnh đó, pho tượng gỗ kỳ lạ nằm đổ vật trên bãi cỏ. Bình tĩnh lại, tôi ước đoán là chính pho tượng gỗ kia đã đổ xuống đầu tôi vào đúng lúc ấy !
       Rất đột ngột, Xuyến đứng phắt dậy, nhìn tôi bằng ánh mắt nảy lửa. Cầm khẩu AK, lấy nòng súng gảy cằm tôi lên, Xuyến nói , giọng khô khốc :
      - Anh đã làm nhục tôi vào đúng lúc tôi đau khổ đến mất trí vì cái chết của Lai và đồng đội !...Đồ đốn mạt ! Anh đáng nhận cả băng AK này !
      - Hãy bắn chết tôi đi ! – Không kịp suy nghĩ gì, tôi bỗng hét lên, như thằng điên – Tôi đáng bị phanh thây xé xác ! Bắn đi !...
      Xuyến nhìn tôi bằng cái nhìn lạnh băng , rồi bất ngờ lấy bàn chân di di vào mặt tôi, ấn mạnh một cái vào mồm tôi rồi nói gằn :
      - Câm ngay ! Đừng có rống lên như chó chết thế ! Anh chưa được chết đâu, đồ đốn mạt như anh không được chết cùng với những người lính chúng tôi. Phải sống mà chuộc lại những tội lỗi và thi hành ngay mệnh lệnh của tôi đây ! Hãy chôn tôi bên cạnh mộ Lai và trồng xung quanh hai nấm mộ một vòng hoa pét . Xuyến vừa dứt lời, hai tiếng AK nổ vang, rung chuyển cả khu rừng vắng ! Xuyến lảo đảo, quăng khẩu AK rồi đổ nhào trên nấm mộ Lai !...
Nghe Hiên kể đến đây, người tôi run lên như sốt rét. Tôi muốn bật dậy đạp vào cái bộ mặt đang đau đớn như dại đi của Hiên kia ! Song, tôi vụt nghĩ : dù là ở những đầu óc u tối, con người ta sẽ có được những ý nghĩ tốt đẹp khi được tự do suy nghĩ trong yên tĩnh . Vì thế, thay vì sự kinh tởm gai người, tôi nằm ngả ra bãi cỏ hút thuốc, làm như không hề biết có Hiên ở bên cạnh nữa !
… Có mấy cô gái Gia Rai ra bến gùi nước. Nhìn các cô gùi những quả bầu đựng nước đen bóng trên đôi vai tròn lẳn, thần kinh tôi như dịu lại, nhẹ nhõm. Tiếng nước óc ách trong gùi các cô gái về buôn như một bản nhạc tuyệt vời mà không nhạc sĩ tài ba nào diễn tả nổi…Chờ các cô gái về hết, Hiên rúc đầu vào máng nước rồi ngửa cổ uống ừng ực. Tôi nhìn Hiên và nghĩ: khi được uống nước ở nơi đầu nguồn, con người ta sẽ trở nên trong sạch! Các cụ thường nói ”Trăm nhơ lấy nước làm sạch” đó sao? Đây lại là nước đầu nguồn, nước từ Đất Mẹ chảy ra. Nước đầu nguồn là nước Thánh, là sữa của Đất Mẹ!...
Hiên trở lại ngồi gần tôi từ lúc nào. Khuôn mặt Hiên trở nên khác lạ, tái xanh. Những vết hằn của xương trên da mặt như đang được phóng lên cực độ, như muốn xóa bỏ đi lớp da mặt đã không còn sắc màu…Tôi nhắm mắt rùng mình khi có cảm giác như đang nhìn thấy một bộ xương mặt kỳ dị!
       Hiên trầm ngâm một lúc rồi hít một hơi dài. Không khí mát lạnh của bến nước như thấm vào từng mao mạch Hiên. Ánh mắt như nhìn vào nơi vô định, Hiên chậm rãi kể tiếp.
…Phải sau đó khá lâu, tôi mới được một chú bé người Gia Rai tới giúp tháo sợi dây trói. Tôi đã thực hiện mệnh lệnh của Xuyến như một tên nô lệ. Chú bé Gia Rai ấy là con già làng Rơmah Pao. Khi thấy tôi đem pho tượng gỗ ấy về, già làng Pao đã kể cho tôi nghe sự tích tượng nhà mồ…
       Ngày xưa, đã lâu lắm…Già làng Rơmah Pơ có người con gái rất xinh đẹp tên là H’Điêu. Vẻ đẹp của nàng đã được truyền tụng thành bài ca:
              H’Điêu bước đi nhẹ nhàng
             Chàng trai buôn làng ngó hướng Tây
            Mây dạt về hướng Đông
             Đồng cỏ rì rào ngả về phía Nam
            Thấy nàng đẹp, nai ngơ ngác nhìn
             Hươu đứng say mê quên ăn cỏ
             Đàn cò sà xuống đầm lầy
            Con cò lúng túng rơi xuống đất
            Nàng đi uyển chuyển
            Vòng ở chân, ở tay rộn ràng
            Mặt nàng trắng như bông
             Môi nàng đỏ như hoa pét…
              Có chàng trai mồ côi tên là Siu Pa yêu nàng say đắm. Chàng Siu Pa khỏe mạnh, giỏi múa gươm, múa khiên nhất trong đám trai làng nên nàng H’Điêu cũng yêu chàng mê mệt. Nhưng vì chàng Siu Pa nghèo quá nên già làng Pơ không cho hai người cuới nhau. Trong khi đó, lão thầy cúng rắp tâm chiếm đoạt nàng H’Điêu cho thắng con trai chột mắt hung ác của lão. Lão dụ dỗ, bày đủ mưu mô nhưng không làm ngả nghiêng được lòng H’Điêu. Cuối cùng lão thầy cúng thực hiện âm mưu hiểm độc. Lão nói với già làng Pơ:”Ơ già làng Pơ! Đêm qua tôi nằm mộng thấy Giàng nói conma lai (1) đang nằm trong tim con H’Điêu!”. Già làng Pơ kinh ngạc, hoảng hốt, không biết nói sao, chỉ giậm chân bịch bịch. Già làng Pơ nghĩ:”Mình ăn ở tốt với dân làng, không có tội gì, tại sao Giàng lại để cho con ma lai nhập vào H’Điêu, cô con gái xinh đẹp nhất làng của già? Hay là…?”. Già làng nghĩ mãi mà không tìm được lời giải đáp ! Thầy cúng liền ra điều kiện : Nếu già Pơ nói được nàng H’Điêu đồng ý cưới con trai lão thì lão sẽ làm phép cứu H’Điêu. Còn nếu không thì H’ Điêu phải bị đem ra xử tội theo lệ làng ! Già làng Pơ thương H’ Điêu, không nỡ ép H’ Điêu lấy thằng Ksor Ten con lão thầy cúng, nhưng già làng Pơ không làm gì được để cứu H’ Điêu khi lão thầy cúng đã tìm ra đủ thứ bằng chứng kết tội nàng là ma lai. Lệ làng tối cao do Giàng đặt ra, không ai được vi phạm ! Để cứu dân làng khỏi tai họa ma lai, H’ Điêu phải bị trừng phạt !...Già làng Pơ như đứt từng khúc ruột, nhưng rồi vẫn phải cố đứng vững như cây xà nu để nhìn lão thầy cúng làm lễ trừng phạt con ma lai… H’ Điêu ! “ Ơ Giàng ! H’ Điêu bị oan rồi ! H’ Điêu không thể là ma lai được !” Trong tim già Pơ có tiếng thét như vậy, nhưng lão thầy cúng không nghe thấy, mặt lão xám xịt, lạnh buốt, mồm lão đang lẩm bẩm những lời khấn mà chỉ mình lão hiểu !...Khi bàn tay mềm mại như cánh hoa pơ-lang của H’ Điêu bị chì nóng đổ vào, nàng rú lên một tiếng kinh hoàng rồi chết rũ như tàu lá chuối non bị bén lửa. Liền đó, già làng Pơ bỗng hét lên một tiếng dữ tợn, ông thấy trái núi Hơđrung như sụp đổ đè lên người ông, nghiến nát ông thành muôn ngàn hạt bụi !
       Sau khi H’ Điêu chết, già làng Pơ bị ốm liệt gường. Rồi một đêm, người ta thấy già làng Pơ đi vào rừng sâu, nơi chôn nàng H’ Điêu và ngồi ôm mặt đau khổ bên nấm mộ nàng. Người ta cũng thấy chàng mồ côi Siu Pa ở đấy, chàng đang đánh cồng xung quanh mộ nàng, cầu mong nàng sống lại. Không biết bao nhiêu ngày đi qua mà không thấy già Pơ và chàng Siu Pa trở về? Vài người vào rừng tìm. Khi đến chỗ mộ nàng H’Điêu, người ta kinh ngạc khi thấy già làng Pơ và chàng Siu Pa đã hóa thành hai bức tượng gỗ bên mộ nàng H’ Điêu. Hiểu ra nàng H’ Điêu bị vu oan là ma lai, họ thương xót nàng H’ Điêu vô cùng, nhưng không biết làm sao ! Họ cũng đồng cảm với nỗi đau của già Pơ và chàng Siu Pa, nhưng cũng không biết làm gì ! Những người có mặt tại đó chỉ biết đứng lặng quanh mộ nàng H’ Điêu , bên cạnh già Pơ và chàng Siu Pa ! Rồi những người ấy cũng mãi mãi không trở về, họ cũng hóa thành tượng gỗ ! Từ đó, khi làm lễ bỏ mả (P’thi), người ta tạc những pho tượng như thế chôn xung quanh nhà mồ để cho người chết luôn có người thân bên cạnh !...
      Hiên kể đến đó thì ngồi im lặng như pho tượng gỗ . Nhìn Hiên, tôi biết anh đang xúc động sâu xa. Chờ một lát, tôi hỏi :
      - Này, ông có hư cấu tí nào không đấy ?
      - Tôi xin thề độc – Hiên làm điệu bộ thề - Tôi mà phịa thì Giàng Bênh Gia vặt phứt lưỡi tôi ném cho chó ăn !
      - Sao ông hay thề độc thế ? Giàng Bênh Gia là gì ?
      - Khi nào trái tim tôi nói, tôi mới thề ! Còn Giàng Bênh Gia là thần Bến nước. Thần linh thiêng lắm. Tôi đã nằm mơ thấy thần phán rằng, rồi tôi sẽ hóa thành tượng gỗ !
      - Thật không ?
      - Tôi xin thề…
      - Thôi đừng thề nữa ! Tôi không thích nghe thề vì lại quan niệm chỉ ai nói dối mới vin vào lời thề !
      - Vậy xin chịu ông ! Ông không tin tôi thì để rồi tôi sẽ dẫn ông đi gặp già làng Rơmah Pao. Già làng nói ắt ông tin !
Vì có việc đột xuất, đoàn điền dã khảo sát tượng nhà mồ chúng tôi phải chia tay Hiên sớm hơn dự kiến, không kịp chờ Hiên dẫn tôi đến gặp già làng Pao và khai thác hết cái kho fônclo trong đầu Hiên. Mải mê với bao công việc, nửa năm sau tôi mới có dịp quay về tìm gặp lại Hiên, tiếp tục thực hiện công trình nghiên cứu về tượng nhà mồ Tây Nguyên. Nhưng khi đến làng, tôi được biết Hiên đã mất tích gần tháng trời. Tôi chỉ gặp Rơmah Tơ, chú bé Gia Rai đã cứu Hiên hồi nào. Rơmah Tơ cho biết già làng Pao cũng mới chết được nửa tháng. Rơmah Tơ dẫn tôi đi tìm hỏi tung tích Hiên, nhưng người thì nói gặp Hiên đi đãi vàng ở Đăk Glêi, người ta lại nói thấy Hiên đi tìm trầm hương ở bên Chư Prông ! Tôi không tin là như vậy. Đang nghĩ mông lung, tôi vụt nảy ra ý định đến thăm mộ Lai và Xuyến.        Rơmah Tơ dẫn tôi đến nơi, sau nửa ngày luồn lách trong rừng. Khi đến nơi, cả tôi và Tơ cùng rú lên kinh ngạc : Hiên đang ngồi ôm mặt, đau đớn, dằn vặt sâu xa, chân thành bên hai nấm mộ mọc đầy hoa pét thắm đỏ ! Tôi càng kinh ngạc hơn khi lại gần thì đó chỉ là một pho tượng gỗ, tuy đẽo vạc đơn sơ nhưng sao mà giống Hiên kỳ lạ . Chẳng lẽ lại có chuyện thần thoại như thế ? Vậy mà Rơmah Tơ lại tin là Hiên đã hóa thành pho tượng gỗ kia ! Cứ để cho chàng Rơmah Tơ tin là như thế. Sự ăn năn thánh thiện của con người trước cái cao cả sẽ sinh ra những điều kỳ diệu mà không thể tìm lời giải đáp cặn kẽ .
Tôi và Rơmah Tơ đi lang thang hồi lâu trong rừng mặc cho bàn chân chỉ huy cái đầu. Chúng tôi đến trước thác Ya Li từ lúc nào. Nhìn dòng nước tung bọt trắng xóa, mù mịt cả một vùng rừng xanh ngút ngàn, tôi đoán Hiên có lẽ đã được Thần Bến nước của anh ta mang đi ! Tôi muốn nhảy vào trong cái đám trắng xóa mù mịt ấy để túm cổ anh ta lôi lại, bắt anh ta trả lời bao nhiêu câu hỏi cứ hiện ra trong đầu tôi từ khi gặp Hiên ! Nhưng, những hạt nước li ti đã làm tôi lạnh run. Chúng tôi trở lại, khi đi ngang qua mộ Xuyến và Lai, tôi cứ nhìn mãi pho tượng gỗ giống hệt Hiên mà không thể khẳng định được chắc chắn rằng ai đã tạo nên nó ? Già làng Pao hay là chính Hiên ? Tôi đang đắm chìm trong những suy nghĩ bất tận thì nghe tiếng Rơmah Tơ hát nhẹ, thoang thoảng bên tai :
              - Ơi nỗi đau khổ.
            Sao cứ bám theo con người suốt đời
            Sao chẳng thể chôn ngươi xuống mộ
            Vì con người không thể sống thiếu nỗi đau ? 

Đó là lời một đoạn trong một H’ri (2) của người Gia Rai mà tôi có nghe vài lần . Chàng thanh niên Rơmah Tơ đã ngừng hát, vậy mà lời ca cứ trở đi trở lại bên tai tôi , ngân mãi, ngân mãi như tiếng cồng …
 Chú thích:
(1) Ma Lai : Một quan niệm lạc hậu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Khi buôn làng gặp tai họa gì đó thì họ cho là do ma lai gây ra (có người chết bất ngờ, dịch bệnh…). Thầy cúng là người đầu tiên loan tin ai đó là ma lai. Người nào bị buộc tội là ma lai sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp cho đến chết. Đổ chì nóng vào tay như ở trong truyện là một cách khá phổ biến.
(2) H’ri : Tiếng Gia Rai, chỉ một loại trường ca của dân tộc Gia Rai ở tỉnh Gia Lai – Kon Tum.
Plêiku, 5-l986 - TP.HCM,2009 
Đỗ Ngọc Thạch 
Nguồn: Newvietart.com

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch 


Người đâu gặp gỡ làm chi.
Trăm năm biết có duyên gì hay không?nguồn: ảnh nude nghệ thuật
Xem thêm: