Ký ức Hà Nội - Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
[10.09.2011 22:36]
(Tuổi thơ đi rồi mãi mãi lìa xa Chẳng còn bao giờ mong trở lại Tim vẫn hát điệu vần khôn cưỡng lại Tình yêu như sao trời mọc trên đầu ta!... Đ.V.C.T.)
Ngay
sau ngày giải phóng Thủ đô, gia đình tôi chuyển về Hà Nội, từ chiến
khu. Bố tôi làm việc ở Bệnh viện quân đội 108 (còn gọi là bệnh viện Đồn
Thủy) nuôi cả nhà, gồm mẹ tôi và năm chị em. Lúc đó, tôi chưa tới mười
tuổi nên không thể nhớ lại được bố mẹ tôi đã xoay trở ra sao để nuôi
một đàn con chúng tôi ăn học giữa chốn thị thành này. Tôi cũng không
có ý thức gì về sự giàu nghèo vì cho tới lúc này, tôi vẫn chưa biết mặt
mũi đồng tiền nó như thế nào!
Gia
đình tôi ở nhờ trong nhà một người bạn học cũ của bố tôi, ở phố Nguyễn
Lai Thạch. Chủ nhà nhường toàn bộ phần lầu một, thoáng mát, rộng rãi.
Tuy nhiên, chính vì ở trên lầu mà cái cầu thang đã trở thành mối nguy
hiểm thường trực đối với tôi: vì không quen đi cầu thang mà mỗi ngày
phải lên xuống cái cầu thang ấy hàng chục lần, nên tôi thường bị té ngã
đủ kiểu! Ấy là chưa kể tôi còn thường bị bố tôi đánh lăn từ đầu cầu
thang xuống tới chân cầu thang! (Sau này, tôi không còn oán bố tôi về
chuyện này nữa vì tôi biết rằng bố tôi là người tính nóng, mà tôi thì
hay làm hỏng việc và thường là không thực hiện đúng những quy định do
bố tôi đặt ra, chẳng hạn như làm vỡ phích nước, khi bố tôi đi làm về
mà vẫn chưa nấu cơm xong…). Nhưng tôi lại phải cảm ơn cái chuyện ngã
cầu thang này vì nhờ tôi bị ngã gãy tay mà tôi đã có một người bạn đặc
biệt.
Năm
đó (1955), tôi đang học lớp Một. Vào năm học được một tháng thì tôi bị
ngã cầu thang và phải nghỉ học gần mười ngày. Tới ngày nghỉ thứ ba thì
Nhung – lớp trưởng, được cô giáo giao nhiệm vụ đến giúp tôi chép bài
và hướng dẫn tôi học, để khỏi bị đứt đoạn. Nhưng cả Nhung và cô giáo
đều không biết rằng hồi còn ở chiến khu, tôi đã học xong toàn bộ chương
trình lớp Một, vì khi đó, mẹ tôi là cô giáo tiểu học và đã cho tôi
học “dự thính” ! Khi về Hà Nội tôi mới đủ tuổi vào lớp Một nên phải
xin vào học lại từ lớp Một. Thật là sự trùng hợp ngẫu nhiên, Nhung cũng
đã tự học xong chương trình lớp Một, nhưng là do chị Nhung dạy tại
nhà. Thế là việc học bài chuyển thành những buổi đọc truyện thật là thú
vị đối với tôi.
Nhung
nói nhà Nhung có một tủ sách rất lớn được truyền lại từ ông nội Nhung
(đã đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn), đến bố Nhung, một bác sĩ đã tốt
nghiệp khóa đầu của trường đại học Y – Dược Hà Nội. Chính là nhờ Nhung
tôi đã biết thế giới kỳ ảo của truyện Cổ tích, Thần thoại từ Việt Nam,
Trung Quốc cho đến An-đec-xen, Grim…
Việc
Nhung dắt tôi vào thế giới kỳ ảo của Cổ tích, Thần thoại thật là thú
vị đối với tôi, nhưng còn thú vị, tuyệt vời hơn là việc Nhung đã tình
nguyện là hướng đạo dẫn tôi đi khắp Hà Nội 36 phố phường!
Lần
đầu tiên, Nhung dẫn tôi đến hồ Hoàn Kiếm và kể cho tôi nghe chuyện
vua Lê Thái Tổ trả gươm cho Thần Rùa. Trong khi tôi đang mải suy nghĩ
xem Thần Rùa đã để thanh gươm ấy ở đâu thì Nhung nói:
-
Giá như khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, Thần Rùa cũng cho mượn
Gươm ấy thì nước ta đã không bị chúng đô hộ gần một thế kỷ !...
Tôi nói ngay:
- Giặc Pháp có nhiều súng đạn, gươm thì làm sao đánh lại?
- Ừ nhỉ !... – Nhung nói khẽ và buông một hơi thở nhẹ.
Tôi
thấy mình như bị một lực vô hình nhấc bổng lên cao rồi ném mạnh xuống
hồ. Tôi lặn hụp một hồi thì cảm thấy như là bị chuột rút. Tôi vẫn còn
tỉnh táo để nhận ra một bàn tay nhỏ đã túm tóc tôi kéo vào bờ!
Nhung hỏi, sau khi tôi đã trở lại bình thường:
- Sao bạn lại nhảy xuống hồ?
- Tôi định lặn xuống tìm thanh gươm của Thần Rùa ! – Đúng là trong đầu tôi có ý nghĩ như vậy!
- Trời ơi! – Nhung tròn mắt nhìn tôi – bạn không biết bơi mà sao lại liều như vậy?
-
Tôi bơi giỏi ấy chứ! – Tôi cười to và nói liền một mạch - Ở quê tôi có
sông Thao, tôi đã bơi qua sông rồi bơi trở lại. Đó là chuyện bình
thường. Bạn có biết câu “Sông Thao nước đục người đen – Ai lên Vũ Ẻn
thì quên đường về” không? Quê tôi đẹp và nên thơ lắm. Nhưng khi được
biết câu “Mịt mù khói tỏa ngàn sương – Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây
Hồ” tôi lại thấy Hà Nội của bạn chắc là đẹp hơn?
Không
phải đợi lâu, Nhung dẫn tôi đến Hồ Tây. Đứng trước mặt hồ, một cảm
giác kỳ lạ dâng trào trong tôi và tôi đã nhảy ào xuống hồ từ lúc nào.
Sau khi lặn một hơi, tôi nổi lên và sải tay bơi ra giữa hồ. Được một
lát, tôi ngoảnh lại thì thấy Nhung đang đứng yên lặng bên bờ hồ, mắt
dõi theo tôi. Bơi được khoảng gần một trăm mét, tôi dừng lại và chợt
nghĩ: “Thử lặn xuống xem có báu vật gì không?”. Thế là tôi lặn một
hơi dài. Quả nhiên, không lâu la gì, tôi đã tìm thấy một cái đồng hồ bỏ
túi và một miếng ngọc bội. Tôi tặng Nhung miếng ngọc bội và giữ lại
cái đồng hồ (Nhưng ngay ngày hôm sau, cái đồng hồ đã bị bố tôi tịch thu
!). Chúng tôi còn trở lại hồ Tây hai lần nữa, cũng có nhiều chuyện
đáng nhớ mãi nhưng chưa thể kể hết ra đây được!
Tôi
ở Hà Nội chưa được một năm, chưa kịp đi xem hết những kỳ quan của Hà
Nội thì gia đình tôi chuyển về Hà Đông (bố tôi được điều động về làm
việc ở quân y viện 103). Ở Hà Đông được một năm thì bố tôi lại được
điều động về quân y viện 109 ở Vĩnh Yên. Ở Vĩnh Yên cũng chưa được một
năm thì gia đình tôi lại chuyển về Hà Nội (bố tôi đã chuyển ngành và
đang chờ Bộ y tế sắp xếp công tác). Lần này, gia đình tôi ở nhờ một
trại chăn nuôi bò sữa vùng ngoại ô, có cái tên rất hay: Lương Yên. Đây
là khu lao động, hầu hết là dân nghèo. Vì thế, phòng mạch của bố tuy
đông bệnh nhân nhưng thu nhập chỉ vừa đủ sống (đa phần chữa bệnh không
lấy tiền). Công việc ở phòng mạch rất nhiều (có đủ các loại bệnh, riêng
công việc giải phẫu – chỉ có tiểu phẫu – thì nhiều không ngờ: ngày nào
cũng ngót nghét chục ca) nhưng người làm chỉ có ba : bố tôi, mẹ tôi
(đã là y tá) và tôi. Vì tôi bận làm việc như thế cho nên thời gian để
gặp Nhung thật là hiếm hoi. Chỉ đến khi Nhung xin chuyển về trường
Lương Yên học cùng lớp với tôi (lớp 4), thì chúng tôi mới được gặp nhau
thường xuyên – dĩ nhiên!
Những
giờ kiểm tra một tiết hoặc cả buổi, chúng tôi chỉ làm bài trong mười
phút là xong và nộp bài cho thầy giáo rồi dắt nhau tung tăng khắp phố
phường ! Những ngày tháng đó thật là đẹp và có thật nhiều kỷ niệm nhớ
đời. Tôi chỉ xin kể ra đây một kỷ niệm “đòn đau nhớ đời”!
Lần
ấy, khi tôi và Nhung đang đứng xem giới thiệu chương trình kịch mục
trước cửa Nhà hát Lớn thì thật bất ngờ, chiếc mô-bi-lét của bố tôi đỗ
xịch ngay sát người tôi mới biết! Kết quả là tôi bi một trận đòn “thập
tử nhất sinh” cùng với bao lời kết tội của bố tôi, trong những tội đó
có một từ mà lần đầu tiên tôi được nghe : luyến ái bất chính ! Khi nghe
bố tôi nói như thế, tôi nghĩ: đúng là tôi và Nhung rất thân nhau, rất
thích gần nhau, nhưng yêu thì chắc là từ đây tôi sẽ yêu Nhung!
Tôi
chưa kịp nói với Nhung về những suy nghĩ của mình thì gia đình tôi
chuyển lên Thái Nguyên – bố tôi được giao nhiệm vụ làm giám đốc bệnh
viện Khu Gang thép Thái Nguyên. Tính lại, chúng tôi chỉ cùng được học
bên nhau học kỳ 1 của lớp 4, nhưng bù vào đó, Nhung đã dẫn tôi đi khắp
lượt Hà Nội 36 phố phường . Sau này, khi trở lại sống ở Hà Nội lần thứ
ba, tôi đã bắt tay vào viết cuốn Hà Nội ký sự, nhưng rồi bỏ dở vì nghĩ
có lẽ mình không qua nổi những văn tài đã viết rất hay về Hà Nội như Vũ
Bằng, Thạch Lam, Tô Hoài…Lần ra đi này của gia đình tôi cũng thật là
cập rập, dĩ nhiên là tôi không thể chia tay với Nhung. Tới Thái
Nguyên, tôi đã viết thư ngay cho Nhung, gửi cả về nhà và địa chỉ lớp
học, nhưng dù tôi có gửi thêm gần chục lần nữa, cũng không hề có thư
hồi âm của Nhung!
Ở
Thái Nguyên được một năm rưỡi, gia đình tôi lại chuyển chỗ ở : đi một
mạch từ Thái Nguyên về thành phố biển Hải Phòng! Bố tôi lại chuyển đổi
công tác (chưa phải là lần cuối): về làm giám đốc Viện điều dưỡng A ở
Hải Phòng ! Lúc chiếc xe tải chở gia đình tôi từ Thái Nguyên về qua Hà
Nội, chỉ nghỉ có một đêm, tôi muốn đi tìm gặp Nhung nhưng tôi không có
một kẽ hở thời gian nào: mẹ tôi đã đẻ thêm ba cậu con trai, từ năm 1955
đến năm 1960, (lúc đó là đầu năm 1961) và việc trông coi ba đứa em nhỏ
tôi phải làm gần hết, không khác gì một nhũ mẫu thực thụ ! Không thể
diễn tả hết cảm giác của tôi lúc đó: thấy như là Nhung ở rất gần đâu
đây mà không gọi được, không tới được!
Thế
là lại phải qua đi năm năm nữa tôi mới được gặp lại Nhung. Ấy là lúc
tôi học xong lớp mười Trung học Phổ thông và có giấy gọi vào khoa Toán
trường Đại học Tổng hợp. Nhận được giấy gọi, tôi đi Hà Nội ngay. Đoạn
đường “tăng-bo” khá dài (thời gian này – l966, máy bay Mỹ đã tăng cường
đánh phá miền Bắc, cầu Phú Lương trên đường số 5 bị hỏng nên tàu hỏa
không thể đi qua) nhưng tôi đi như bay, như là có cánh mọc dưới chân
như nhân vật Hecmet trong thần thoại Hy Lạp! Gặp lại Nhung sau sáu năm
xa cách, tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác: Nhung đã là một thiếu
nữ 18 tuổi cực kỳ xinh đẹp, không thua kém các hoa hậu thời nay bất kỳ
điểm nào ; Nhung cũng tốt nghiệp phổ thông trung học như tôi nhưng với
điểm cao tuyệt đối mà bây giờ gọi là Thủ khoa, đặc biệt với môn Toán,
suốt 10 năm học phổ thông, Nhung luôn đạt điểm cao nhất; điều bất ngờ
thứ ba gây sốc rất mạnh đối với tôi là Nhung không được gọi vào đại học
vì lí lịch: Ông nội là quan lại thời phong kiến, bố là tư sản, có một
ông chú đang làm việc trong chính quyền Sài Gòn và một ông chú đang
sống ở Pháp! Tôi không nói được lời nào để an ủi Nhung hay đại loại
như vậy, chỉ vò đầu bứt tai và cảm thấy như mình có lỗi! Nhưng Nhung
lại an ủi tôi và tỏ ra rất bình thản (hay đúng là Nhung chỉ tỏ ra bình
thản ở bề ngoài ?). Nhung nói nhỏ nhẹ:
- Bạn nên tới trường ngay đi. Đường xa và bom đạn không biết đâu mà lường! Tôi sẽ đưa bạn tới tận nơi học!
Trời
ơi! Nghe Nhung nói mà tôi như sắp òa khóc! Tôi muốn thời gian ngừng
lại, trái đất ngừng quay và tốt nhất là quay ngược lại cái thời Nhung
dắt tôi đi lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội ! Trong đầu tôi vụt
hiện lên nào là Hồ Gươm cổ tích, Hồ Tây bâng khuâng, hồ Thuyền Quang mơ
mộng, Ô Quan Chưởng trầm mặc, Ô Đông Mác lầm bụi, Ô Chợ Dừa nhộn
nhịp…, nào là những con đường ào ào lá đổ, những hàng cây đào Nhật Tân
kiên nhẫn đứng đợi xuân về, nào là cây cầu Long Biên già nua nhưng vẫn
cố gồng mình cho đoàn người, đoàn xe qua lại không ngớt…
Cuối
cùng thì tôi cũng không thể không đối diện với thực tại: tôi đi học,
còn Nhung, Nhung sẽ đi đâu? làm gì? Nhung không trả lời tôi mà giục tôi
lên đường. Quả là con đường sẽ đi rất xa: Khoa Toán của trường ĐHTH
sơ tán ở tận huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên (tôi có duyên nợ gì với Thái
Nguyên đây?). Đi tàu từ thị xã Thái Nguyên đến ga Quán Triều là hết
đường sắt, phải đi bộ tiếp đến Đại Từ, và điểm cuối cùng là thôn Đầm
Mây – chắc là chỗ chúng tôi học ở tít trên chín tầng mây! Suốt
quãng đường đi bộ, con đường đồi núi dài hun hút và vắng teo, Nhung
hết đọc thơ, bình thơ rồi lại kể chuyện cổ kim đông tây cho tôi nghe.
Tôi không ngờ Nhung đọc thơ và bình thơ thật tuyệt vời, nhất là những
bài thơ tình của Aragon viết tặng Ensa do Nhung tự dịch từ nguyên bản
tiếng Pháp . Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn còn thuộc những câu thơ ấy
và nó hiện ra trong đầu tôi cùng với hình ảnh Nhung đang đọc lên lúc
ấy: “Tất cả những gì về anh nhờ em anh mới biết – Trời đã đứng trưa,
ngày cũng sắp qua rồi – hạnh phúc không phải ngọn đèn nơi quán nhỏ -
anh cầm tay em trong cuộc đời đau khổ - mà con người chưa hiểu nghĩa
chung đôi…”
Con
đường dài hun hút và vắng teo ấy cuối cùng cũng ở sau lưng chúng tôi!
Tôi sợ phải chia tay với Nhung. Một nỗi sợ không có hình hài nhưng nó
làm tim tôi như ngừng đập! Và có lẽ Nhung biết rất rõ điều ấy nên Nhung
đã đồng ý để tôi đưa Nhung trở lại thị xã Thái Nguyên. Và rồi cuối
cùng, tôi đã đưa Nhung trở lại Hà Nội. Chúng tôi quyết định sẽ đi lang
thang khắp Hà Nội một lần nữa, một ngày một đêm, rồi tôi sẽ đi Thái
Nguyên, tới huyện Đại Từ và cuối cùng là cái làng Đầm Mây heo hút kia!
Khắp Hà Nội là một không khí sẵn sàng chiến đấu đánh trả
bọn “Thần Sấm”, “Con Ma” của “Không lực Hoa Kỳ”. Trên đường Thanh Niên
bên Hồ Tây, nơi có hàng ghế đá và những cây liễu rủ tóc thướt tha –
nơi hẹn hò yêu đương của những đôi lứa – sừng sững những khẩu pháo
phòng không đang sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào. Trên sân thượng ở
các nhà cao tầng, những khẩu súng máy 14,5 li và 12,7 li và cả súng
trường CKC cũng đang vươn nòng sẵn sàng chiến đấu !... Một ý nghĩ
thoáng vụt đến: tôi muốn đi chiến đấu, tôi sẽ xông pha nơi bom lửa bão
đạn, chứ không thể tìm đến một nơi an toàn tít tận cái làng Đầm Mây hẻo
lánh trên miền núi rừng kia để mà ngồi học, nhất là Nhung lại không
được đi học nữa! (Ý nghĩ bất chợt ấy chỉ ba tháng sau đã trở thành sự
thật!).
Bấy giờ là tháng Chín – Mùa Thu. Tôi và Nhung cứ đi
lòng vòng mà không định rõ rằng sẽ đi đến đâu? Khi tôi thấy đôi chân
mỏi rời thì cũng là lúc chúng tôi đang đứng trước Văn Miếu. Chúng tôi
đã đến Văn Miếu nhiều lần vì ông nội Nhung có tên trong tấm bia đá tiến
sĩ, mỗi khi nhớ ông nội Nhung lại đến đây…Tôi nói với Nhung :
- Giá như bây giờ là Mùa Xuân thì hay quá, mình muốn đến nhìn hoa đào đón Mùa Xuân như thế nào?
-
Mùa Thu Hà Nội có nhiều điều kỳ diệu lắm. Mình có cảm giác rằng chính
Mùa Thu đã làm cho Hà Nội đẹp một cách huyền ảo. Vả lại riêng mình,
trong bốn mùa ở Hà Nội, mình thích Mùa Thu nhất, bởi Mùa Thu dài nhất,
bí ẩn nhất…- Nhung nói nhỏ.
- Và buồn nhất – Tôi nói chen ngang – Tiếng Thu là âm thanh buồn vô hạn : “Con nai vàng ngơ ngác – đạp trên lá vàng khô”…
Nhung xác nhận:
-
Đó cũng là một biểu hiện lãng mạn của Mùa Thu, nhưng người ta chìm đắm
vào đó nhiều quá, thái quá bất cập. Mình thích Mùa Thu nhất không phải
vì Mùa Thu buồn mà vì lẽ khác. Bạn cứ thử nghĩ xem, tại sao chỉ có
Thiên Thu mà không có thiên Xuân, thiên hạ, thiên đông? Thiên Thu (ngàn
năm) là một khái niệm thời gian không có giới hạn…Mình cứ bị ám ảnh
bởi một câu thơ nói về cái chết của một chú bé lính kèn: “Hỡi người
lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây yên giấc ngàn Thu…” Đó là cái vĩ đại,
cái kỳ diệu trong cái bé nhỏ. Loài người tồn tại được là nhờ điều
đó!
Tôi
lờ mờ nhận ra điều gì đó trong suy nghĩ của Nhung, nó như đôi cánh của
Thiên Thần đang bay trên thinh không kỳ ảo. Vì cứ mải đuổi theo đôi
cánh Thiên Thần ấy mà tôi quên hết những gì định nói với Nhung trong
ngày hôm nay. Cuối cùng, tôi lại nói một câu rất vu vơ:
-
Thiên Thu? Đúng rồi ! “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”, hồi ở
Hải Phòng, vì đánh nhau mà mình bị giam ở đồn công an một ngày, đúng là
dài bằng cả ngàn năm!
Nhung mỉm cười rồi chợt buông một hơi thở nhẹ và nói:
-
Mình rất muốn được học ở Khoa Toán như bạn, nhưng cái số mình là nó
vậy, biết làm sao. Điều mong ước duy nhất của mình lúc này là bạn sẽ
học thật tốt, sẽ trở thành một nhà toán học như trước đây chúng mình đã
hằng mơ ước. Bạn thắp hương cầu khấn ông nội mình đi, ông sẽ phù hộ độ
trì cho bạn…
Chúng
tôi cùng cầu khấn ông nội của Nhung. Tôi nhìn tấm bia Tiến sĩ mà như
thấy cảnh tôi vinh quy bái tổ, Nhung e lệ đón tôi trong tiếng pháo nổ
vạn sắc hồng! Nhưng, kỳ lạ thay, con Rùa dưới tấm bia như là đang bò
đi, mới có vài bước chân mà đã mất hút! Tôi giật mình nhìn sang Nhung,
Nhung vẫn đang lầm rầm khấn điều gì đó! Tôi không nghe rõ tiếng Nhung
vì không hiểu sao tôi nghe thấy tiếng lá rơi rất kỳ lạ, rất to như là
tiếng bom nổ! Và điều đó không sai, máy bay Mỹ đang ném bom ở đâu đó,
không xa lắm, tiếng còi báo động của Thành phố vang lên!
Đoạn kết:
Đoạn
kết thật bi thương, nhưng không thể khác đi được! Tháng Mười năm 1970
tôi được trở về tiếp tục học tại khoa Toán sau bốn năm là lính Ra-đa
thuộc lực lượng Phòng không – Không quân. Lúc này, trường Đại học không
phải đi sơ tán như hồi tôi mới nhập học nữa. Khoa Toán của tôi học ở
khu Thượng Đình. Nói chung là rất tốt, không có gì phải phàn nàn!
Gặp
lại Nhung, chúng tôi đều rất mừng. Tôi thầm cảm phục Nhung đã có bản
lĩnh vững vàng để đi qua biến cố lớn của cuộc đời. Nếu là tôi, tôi đã
gào thét, đã buông thả và có lẽ sẽ trở thành một kẻ chán đời, bất lực.
Trong suốt bốn năm qua, Nhung đã tham gia rất tích cực trong đội cấp
cứu cơ động của Thành phố. Với tư chất thông minh bẩm sinh, với sự say
mê học hỏi qua tủ sách Y học và sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của
người bố, kiến thức cũng như thực hành về Y học của Nhung không thua
kém bất kỳ một bác sĩ chuyên khoa giỏi nào. Nhung đã cùng đội cấp cứu
cơ động cứu sống rất nhiều người trong những đợt oanh tạc liên tục từ
ngày này qua ngày khác của máy bay Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại
mang tính hủy diệt này…Với việc trở lại Khoa Toán của tôi, Nhung đã
khiến tôi bất ngờ vô cùng: Nhung tặng tôi toàn bộ số sách giáo trình
của bốn năm học của một sinh viên khoa Toán mà tôi sẽ phải dùng đến.
Ngày tháng mua sách được ghi ở trang đầu từ năm 1967 đến 1970. Thì ra
trong khi tôi đang mất hút ở chiến trường, Nhung đã mua sách theo
chương trình và tự học xong toàn bộ. Lúc đưa sách cho tôi, Nhung chỉ
nói ngắn gọn: “Trong thời gian bạn ở chiến trường , mình đã học thay
bạn. Giờ bạn đã trở về, trả lại cho bạn đó!”
Tôi
không biết nói sao, chỉ biết lao vào những Ma trận kỳ ảo, những Chuỗi
số dài vô tận của toán học… Song, một điều bất ngờ đến kinh hoàng, đến
nỗi cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tin là nó đã xảy ra là: trong một
lần cứu hai em bé bị nước cuốn trôi ngay sát cầu Long Biên, Nhung đã bị
cuốn vào một cái hút nước. Phải mất nửa ngày, hai người thợ lặn mới
tìm thấy Nhung !... Đó là ngày l0-l0-1971!...
…Nhung
nằm đó, bất động…Tay Nhung đang cầm miếng ngọc bội mà tôi đã tặng
Nhung ở Hồ Tây năm xưa…Tôi vụt nhớ đến câu thơ có hai chữ “Thiên Thu”
mà Nhung đã đọc cho tôi nghe rất nhiều lần: “ Hỡi người lính kèn nhỏ
tuổi – Hãy nằm đây an giấc ngàn Thu”…Và tôi đã đọc lên cho Nhung nghe,
một lần, hai lần, ba lần, đọc hoài!...
Đỗ Ngọc Thạch
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét