CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ
Sơn Tây từ xa xưa đã là phên giậu của kinh đô Thăng Long . “Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông / Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hung /Sông Đà núi Tản ai hun đúc ?/ Bút thánh câu thần sớm vãi vung…”
– ông này là ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, thi sĩ quái kiệt của
hai thế kỷ, là một trong số ít những ngôi sao sáng chói nhất trên bầu
trời văn chương Việt Nam ở thế kỷ 20. Trong những năm cuối của thập niên
1960, tôi đã có cơ duyên được sống và chiến đấu (trong binh
chủng Ra-đa) trên quê hương Bất Bạt của thi sĩ Tản Đà, và cũng ở cả
những huyện khác của Sơn Tây như Quốc Oai, Tùng Thiện, Phúc Thọ…Đó
là thời kỳ chúng ta đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của không quân
Mỹ, đơn vị Ra-đa của chúng tôi làm nhiệm vụ dẫn đường cho không quân ta ở
sân bay Hòa Lạc …
Truyện ngắn này không phải nói về cuộc chiến đấu ác liệt ngày đó, mà
nói về một cô gái Sơn Tây – một ký ức vẫn còn nguyên hình nguyên khối
trong những năm tháng tuổi thanh niên của tôi – một ký ức đã thôi thúc,
ép buộc tôi phải viết bằng được cái truyện ngắn này, dù thời gian đã
qua đi gần 40 năm…
* * *
Lúc
mới nhập ngũ, tôi ở một đơn vị Ra-đa đóng quân trên quê hương Hưng Yên
nổi tiếng với đặc sản nhãn lồng và những cô thôn nữ đa tình xinh đẹp.
Nói đa tình vì các cô thôn nữ ở đây rất thích có người yêu là lính. Mặc
dù cái câu ca “Ai ơi chớ lấy binh nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con” được truyền
lan rất rộng, nhưng cánh lính binh nhì chúng tôi kiếm người yêu không
khó khăn gì. Nhát gái như tôi mà chỉ sau một tuần, tôi đã có người yêu
khá xinh, và nếu như lúc đó, tôi muốn có vợ thì bố mẹ cô gái sẽ cho
cưới ngay ! Nhưng, lúc đó tôi không hề biết chuyện vợ chồng là như thế
nào, gọi là yêu nhưng thực ra chỉ mới là giai đoạn đầu, tức là thích,
mến mà thôi. Đó là thời mà tình yêu của tuổi trẻ chúng tôi thật vô tư,
trong sáng (Sau này, khi đã giải ngũ, tôi có quay trở về nơi đây tìm
lại cô gái đã cho tôi mối tình vụng dại ấy thì được biết cô thôn nữ bé
nhỏ ngày nào đã trở thành một cán bộ lãnh đạo cấp huyện và đã có chồng
con đề huề !). Nhắc lại cô thôn nữ Hưng Yên một chút vì có liên quan
đến cô gái Sơn Tây, nhân vật của truyện ngắn này.Do yêu cầu chiến đấu,
một đơn vị Ra-đa mới được thành lập để dẫn đường cho không quân ở sân
bay Hòa Lạc thuộc vùng đất Sơn Tây. Tôi được điều tới đơn vị mới đó.
Trước khi tôi đi Sơn Tây, mấy cô thôn nữ Hưng Yên nói :
- Sơn Tây là vùng
đồi trọc nắng cháy khét, chó ăn đá gà ăn sỏi ! Anh lên đó thì làm gì có
nhãn lồng ngọt lịm nữa ! Hay là anh xin ở lại đi !
- Xin sao được ! – Tôi nói ngay – Quân lệnh như sơn !...
- Mà anh đã biết gì về con gái Sơn Tây chưa ? – Một cô vừa cười vừa nói – “Con gái Sơn Tây – Yếm thủng đầu chầy – Răng đen hạt mít, má hồng chôn niêu” !
-
Sao cô lại nói xấu người ta như vậy ? – Mặc dù tôi rất ngạc nhiên vì
đây là lần đầu tôi nghe đọc câu đó, tôi vẫn không tin lại có chuyện như
vậy và cãi - Ở đâu cũng có người đẹp và người xấu ! Người đàn bà xấu
nhất Việt Nam là cô nàng Thị Nở ở đất Nam Định mà nhà văn Nam Cao đã
mô tả !
Cuộc tranh luận bị chấm dứt vì có lệnh lên đường ngay ! Cùng đi với
tôi là anh bạn binh nhì Thế Hùng (người Tuyên Quang – nay đã mất liên
lạc). Cô người yêu của Thế Hùng thật là đa cảm, khóc như mưa rào ! Còn
cô người yêu của tôi, chẳng nói được gì, đến phút chót mới dúi vào tay
tôi một cái khăn thêu nhỏ thêu hình hai con chim đang bay ríu vào nhau
trong một trái tim !...
Trên đường đi Sơn Tây, thỉnh thoảng, Hùng lại đọc câu thơ :
“Rứa là hết, chiều nay ta đi mãi
Còn mong chi ngày gặp lại em ơi !...”
Tôi nói với Hùng :
- Thôi cái giọng ủy mị ấy đi ! Mày phải đọc câu “Bước chân đi đầu không ngoảnh lại !...” Làm người lính thời chiến không được “vương tơ lòng” !
Hùng cười mếu máo :
- Tao là con người chứ có phải gỗ đá đâu ! Mà đá cũng phải mòn dưới dòng nước chảy, “nước chảy đá mòn” đó là gì ?
- Không phải tất cả đều như thế ! Chúng mình phải là đá vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” ! Bây giờ chúng mình đã “xếp bút nghiên theo việc binh đao” thì phải cứng rắn, mạnh mẽ, phải luôn luôn hát vang khúc quân hành “đời chúng ta đâu có giặclà ta cứ đi” và cương quyết “không cho chúng nó thoát ! Chúng bay vào sẽ không có đường ra !” – Tôi cao hứng nói một mạch.
Hùng ngắt lời :
- Thôi,
đủ rồi ! Bây giờ chỉ có hai thằng, chẳng ai ghi điểm cho mày đâu ! Bây
giờ tao muốn hỏi mày điều này : cái vùng đất Sơn Tây nắng cháy
khét “chó ăn đá gà ăn sỏi” ấy như thế nào, mày đã đến đó lần nào chưa
?
- Tao
mới đến qua sách vở như mày thôi ! Nhưng dù sao vẫn không thể bỏ ngoài
tai lời các cô thôn nữ ở Hưng Yên đã nói. Tao rất sợ nóng. Vậy chúng
ta cứ theo cái địa chỉ trong câu thơ của thi sĩ Tản Đà mà đến tắm mát
cái đã :
“Nước rợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay”.
Hùng nghe nói đến
tắm sông là hứng khởi ngay. Ở Hưng Yên, bơi trong những con sông đào
của công trình thủy lợi lừng danh một thời Bắc-Hưng-Hải không đã nên
hai chữ Sông Đà thật là hấp dẫn đối với chúng tôi !
Xin nói thêm là lần chuyển đến đơn vị mới này, chúng tôi phải tự tìm
đường mà đi, từ Hưng Yên (huyện Văn Lâm) tới Sơn Tây (huyện Bất Bạt –
quê hương thi sĩ Tản Đà). Chúng tôi đi nhờ ôtô từ Như Quỳnh về Hà Nội,
rồi nhờ xe tiếp từ Hà Nội tới thị xã Sơn Tây, còn sau đó là đi bộ…Khỏi
phải nói sự sung sướng tột cùng của chúng tôi khi tới Sông Đà, nhảy ào
xuống rồi vùng vẫy, bơi tung tăng như con cá !...Quê tôi ở bên bờ Sông
Thao, làng quê Hùng có Sông Lô, đều là những con sông nổi tiếng, và
chúng tôi đã từng bơi vượt sông nhiều lần, nay đến Sông Đà, chẳng lẽ
lại không dám vượt Sông Đà ? Thế là tôi và Hùng quyết định bơi qua bờ
bên kia ! Có lẽ do chúng tôi đi bộ nhiều và đã quá mệt mỏi nên bơi gần
tới bờ bên kia thì tôi đuối sức và bỗng nhiên có cảm giác như bị hút
tuột xuống đáy sông, rồi tôi bất tỉnh, không biết gì nữa !...
Do sức trai trẻ và cũng là dân sông nước nên chỉ năm phút sau là tôi
đã tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên bãi cát bờ sông bên kia. Hùng đang
ngồi nói chuyện với một cô gái cao lớn khỏe mạnh như một vận động viên
bóng chuyền, nhưng gương mặt thật phúc hậu. Thì ra lúc tôi bị hụt hơi
rồi chìm nghỉm, Hùng vì cứu tôi mà cũng bị chìm luôn. May mà lúc đó,
Tản Viên – tên cô gái, đang chăn bò gần đó đã nhìn thấy và cứu chúng
tôi .
Nhà Tản Viên ở
bờ bên kia sông Đà, tức là phía bờ chúng tôi muốn bơi qua, tức đối
diện với làng quê của thi sĩ Tản Đà. Vì ngưỡng mộ thi sĩ Tản Đà mà ông
bố của cô gái đã đặt tên con là Tản Viên và cũng muốn con mình trở
thành thi sĩ. Song, ông chưa kịp nhìn thấy con trưởng thành thì ông đã
hi sinh ở chiến trường Điện Biên năm Tản Viên mới năm tuổi (Tản Viên
cũng sinh năm 1948, tức bằng tuổi tôi và Hùng). Không biết sau này Tản
Viên có thành thi sĩ hay không, nhưng lúc gặp chúng tôi thì cô đang
chăn đàn bò mười con, số tài sản chính để nuôi bảy người : ông bà nội,
mẹ và bốn chị em mà Tản Viên là thứ hai. Tản Viên cũng có giấy gọi vào
đại học nhưng gia cảnh nhà cô quá khó khăn : ông bà nội đều già yếu, mẹ
cô bị thương gãy một chân trong đợt đi dân công hỏa tuyến hồi chiến
dịch Điện Biên, cho nên người lao động chính trong nhà là cô và người
chị chỉ hơn cô một tuổi. Cùng tuổi với chúng tôi, lại cũng có cảnh ngộ
chung là đường học vấn bị đứt đoạn (chúng tôi tuy đã là sinh viên đại
học Tổng hợp Hà Nội , nhưng mới được ba tháng thì nhập ngũ) nên tôi,
Hùng và Tản Viên nhanh chóng trở thành những người bạn thân. Nhưng, do
chỗ đóng quân của đơn vị chúng tôi ở bên này sông, còn nhà Tản Viên lại
ở bên kia sông cho nên tình bạn của chúng tôi đầy cách trở và đó cũng
là nguyên nhân chính để có cái truyện ngắn này…
* * *
Đối
với con gái, lúc mới tiếp xúc, người ta thường chú ý đến hình thức và
cái đẹp hình thức quyết định hết thảy. Nhưng qua sự phán xét của thời
gian, cái vẻ đẹp hình thức không còn là yếu tố quyết định nữa mà vẻ đẹp
tâm hồn – vẻ đẹp nữ tính mới là yếu tố quyết định . Những cô gái mà có
được cả hai, tức cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn thì tức là vẹn
toàn : đẹp người đẹp nết ! Song, những cô gái được như vậy thật hiếm !
Phải nói một
cách công minh rằng cô bạn Tản Viên của chúng tôi không có gì vượt trội
về vẻ đẹp hình thức, nếu chấm điểm thì chỉ trung bình, nhưng không
hiểu sao, khi tiếp xúc với Tản Viên, cả tôi và Hùng đều không hề có ý
nghĩ bình phẩm về hình thức bên ngoài của cô, thậm chí chúng tôi còn
thấy Tản Viên rất đẹp mỗi khi nhớ tới mấy câu vần vè ác ý mà các cô
thôn nữ ở Hưng Yên đã đọc về cô gái Sơn Tây ! Và điều Tản Viên khiến
tôi thật sự kinh ngạc là cô có sức khỏe phi thường : cô có thể cầm hai
sừng của con bò mộng mà ghìm đầu nó xuống đất hoặc đẩy nó đi giật lùi !
Tôi hỏi tại sao cô có sức khỏe như vậy thì Tản Viên chỉ cười và nói :
- Có lẽ từ bé, lên sáu tuổi, em đã phải vật lộn với đàn bò và có thể là do ngày nào cũng bơi vượt sông một lần!...
Chúng tôi thường hẹn nhau ở bờ sông, chỗ lần đầu tiên gặp nhau. Mỗi khi
Tản Viên dẫn đàn bò tới bờ sông uống nước, thường là vào buổi chiều,
thì cô lại thả một con diều sáo bay vi vu trên trời để báo hiệu cho
chúng tôi biết là cô đang ở đó. Giờ đó là lúc đơn vị chúng tôi ăn cơm
chiều và nghỉ ngơi đến bảy giờ tối là giờ sinh hoạt tập thể (hôm thì
nghe nói chuyện thời sự, hôm thì học hát, vân vân và vân vân). Từ năm
giờ chiều đến bảy giờ tối, đó là khoảng thời gian trống dài nhất để
chúng tôi có thể gặp Tản Viên. Việc đi gặp Tản Viên của chúng tôi phải
giữ bí mật vì nói chung, đơn vị cấm mọi quan hệ riêng tư với dân nơi
đóng quân. Một tuần chỉ có một lần được vào làng xóm thoải mái gọi là
đi “dân vận”, nhưng phải đi tập thể theo từng tổ ba người. Vì thế, khi
nghe thấy tiếng sáo diều của Tản Viên, ngó về hướng nhà cô thấy con
diều sáo đang lơ lửng trên trời, thì Hùng đọc lên câu “mật khẩu”: Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều bay,
và thế là chúng tôi lẳng lặng đi thật nhanh đến chỗ hẹn (khoảng nửa
cây số). Thường là Tản Viên chèo con thuyền nhỏ sang bên bờ sông thuộc
địa phận chúng tôi đóng quân, rồi bơi ra giữa sông, hôm thì thi bơi,
hôm thì ngồi trên thuyền nói chuyện trên trời dưới biển. Cách một ngày,
chúng tôi mới có thể đi gặp Tản Viên được vì cách một ngày trực ban
chiến đấu một ngày. Vì thế, việc gặp gỡ của ba chúng tôi không nhiều
nhặn gì. Vậy mà chỉ ba tháng sau, những cuộc hẹn hò của chúng tôi đã bị
đại đội phó phát hiện và chuyện gì phải xảy ra đã xảy ra !
Buổi chiều hôm ấy, khi chúng tôi vừa tới chỗ hẹn bờ sông thì bất ngờ gặp đại đội phó Tân . Đại đội phó hỏi ngay :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng em đi bơi ! – Hùng nói ngay.
- Các cậu có biết đi khỏi doanh trại 100 mét mà không được phép là vi phạm kỷ luật quân đội không ?
- Báo cáo…Chúng em đã xin phép tiểu đội trưởng ! – Hùng lại nói thay cho cả tôi, không hiểu sao nó phản ứng nhanh thế?
Đại đội phó nhếch mép cười, nói rõ từng tiếng :
-
Thôi, nói dối đủ rồi đấy ! Chính tiểu đội trưởng các cậu đã báo cáo
với tôi rằng gần ba tháng nay, chiều chiều các cậu lại hẹn hò với một
cô gái bên kia sông. Các cậu ép buộc tiểu đội trưởng phải cho các
cậu “đi bơi” nếu không thì sẽ tố cáo tiểu đội trưởng “dan díu” với bà
Đào mẹ cô Mận !
Tôi cũng nói rõ từng tiếng :
- Báo cáo đại đội
phó, chúng em chỉ vô tình nhìn thấy tiểu đội trưởng “dan
díu” với bà Đào, chúng em không hề nói với tiểu đội trưởng rằng sẽ tố
cáo anh ta. Còn việc chúng em đi bơi trong giờ nghỉ tự do là hoàn toàn
hợp pháp. Thủ trưởng hãy thử hỏi chị Tình phó chủ tịch xã xem em nói
đúng không ?
Đại đội phó
nghe đến mấy tiếng “chị Tình phó chủ tịch xã” thì ngớ người, mặt đỏ bừng
rồi phút chốc chuyển sang tím tái, ánh mắt nhìn tôi như muốn tóe lửa!
Tôi đọc được ánh mắt ấy:”A! Thằng nhóc, láo! Mày chỉ là binh nhì lính
quèn mà dám nắm thóp thủ trưởng của mày à? Chúng mày đừng tưởng là lính
sinh viên đại học thì muốn làm gì cũng được! Tao sẽ cho mày đi làm “hỏa
đầu quân” hoặc đầy lên vùng biên ải cho mày trắng mắt ra con ạ!”. Tôi
vừa “đọc” đến đó thì đại đội phó gằn giọng, nói nhanh:
- Binh nhì Hùng và binh nhì Thạch, về ngay đơn vị gặp chính trị viên đại đội !
Tôi vụt nghĩ: A, thì ra cuộc “bắt quả tang” này đã được tính trước! Tôi
vừa nghĩ vậy thì giật mình khi nhìn thấy Tản Viên đang ngồi trên con
thuyền nhỏ, từ từ bơi vào bờ. Đại đội phó cũng đã nhìn thấy Tản Viên,
liền đi ngay ra bờ sông, tới nơi thì con thuyền cũng cập bờ. Cả tôi và
Hùng lúc ấy đều chết đứng như Từ Hải ! Không biết đại đội phó nói gì
với Tản Viên mà thấy cô để cho ông ta lên thuyền và con thuyền bơi trở
lại bên kia. Tới giữa sông, con thuyền như dừng lại khoảng năm phút rồi
như là có sự vật lộn giữa hai người, rồi chỉ hai phút sau đó, con
thuyền lật úp. Tôi và Hùng cùng thét lên khi nhìn thấy cảnh đó và cùng
chạy như bay ra bờ sông. Chúng tôi vừa định nhảy xuống sông thì cùng rú
lên kinh ngạc khi thấy Tản Viên nổi lên ngay sát bờ, lôi theo cả đại
đội phó, đã ngất xỉu, như một xác chết!
Chúng tôi làm hô hấp nhân tạo cho đại đội phó, rồi Hùng cõng đại đội phó chạy về đơn vị. Tôi vội hỏi Tản Viên:
- Vừa rồi xảy ra chuyện gì vậy?
-
Lúc đầu ông ta nói chở ông ta qua sông có việc khẩn cấp. Nhưng ra tới
giữa sông, ông ta nói cho ông ta “ thỏa mãn” thì sẽ tha tội cho anh và
Hùng. Em không chịu và nói các anh không có tội gì cả! Ông ta dám xúc
phạm em, bảo em xấu xí như thế mà được ông ta “chiếu cố” thì phải cảm
ơn chứ, thế là em tức quá, bóp “hạ bộ” ông ta rồi lật thuyền cho chìm
luôn! Hình như ông ta không biết bơi? Em sợ quá phải lôi ông ta vào bờ
ngay thì vừa gặp các anh tới. Chuyện chỉ có vậy thôi, anh cứ yên tâm,
ông ta không dám trả thù đâu vì sẽ bị đau dăm ngày, “đòn đau nhớ đời”
mà !
Tôi vội chạy đuổi theo Hùng, nhưng về tới đơn vị mới kịp. Y tá đại đội
tiếp tục chăm sóc cho đại đội phó, chúng tôi vội chạy ngay về tiểu đội ,
tìm tiểu đội trưởng nhưng không thấy đâu, tới giờ sinh hoạt tổ ba
người rồi mà!...
Sau
chuyện đó, chỉ năm ngày, đại đội phó Tân đã hồi phục sức khỏe. Tôi và
Hùng được gọi lên ban chỉ huy đại đội thì đã thấy đại đội phó đang ngồi
ở đó. Đại đội phó nói luôn:
- Tác
phong quân sự là ngắn gọn, chính xác. Tôi nói ngay thế này: có lệnh
của quân lực Trung đoàn điều hai đồng chí về một đơn vị ở Nghệ Tĩnh.
Ngày mai lên đường!
- Rõ ! – cả tôi và Hùng đồng thanh, như là phản xạ tự nhiên !
- Vậy
là xong việc. Còn đây là câu chuyện nói thêm – đại đội phó “e hèm” rồi
nói nhỏ nhẹ - Nếu hai cậu muốn ở lại, tôi có thể giúp. Nhưng hai cậu
cũng phải giúp tôi một việc !...
Hùng nhanh nhẩu nói :
- Thủ trưởng cứ nói, đừng nói là một việc mà mười việc chúng em cũng sẵn sàng !
- Giỏi lắm ! – Đại
đội phó vỗ vai Hùng – Cậu rất hiểu đời. Bây giờ Khu Bốn đang là biển
lửa, bọn Mỹ đang tập trung đánh phá tuyến đường huyết mạch vào Nam , các
cậu vào đó khó có thể bảo toàn sinh mạng !
- Em còn bố mẹ già và bốn đứa em nhỏ, em phải sống để phụng dưỡng cha mẹ và nuôi các em !... – Hùng nghẹn ngào như sắp khóc !
- Tôi hiểu hoàn cảnh của cậu ! Vì thế, tôi rất muốn giúp, tôi sẽ nói với quân lực điều người khác, các cậu sẽ được ở lại !
- Em xin đội ơn Thủ trưởng !
Trong
khi Hùng đang nắm chặt lấy tay của đại đội phó van vỉ thì tôi thấy máu
trong người như sôi lên, tôi như nhìn thấy cái điều kiện mà đại đội
phó sẽ thò ra, tôi muốn nói với Hùng hãy nhận ngay quyết định đi Khu
Bốn ngay ! Nhưng tôi lại chợt nhớ tới những bức thư đẫm nước mắt của cô
em gái Hùng…Tôi hít một hơi dài và từ từ thở ra rồi ngồi im như tượng
đá ! Tôi nghe thấy tiếng nói của đại đội phó như là từ ở âm phủ vọng về
:
-
Các cậu chỉ phải làm giúp tôi một việc rất nhẹ nhàng, rất dễ dàng : đó
là làm mai mối cho tôi cưới cô bạn của các cậu là cô Tản Viên làm vợ !
Tôi tuổi Thân, cô ta tuổi Tý, rất hợp duyên số, đêm nào tôi cũng thấy
Thần linh báo mộng như vậy ! Nếu làm tốt đẹp chuyện nhân duyên này, các
cậu sẽ không phải đi Khu Bốn nữa mà sẽ được ở lại , sẽ làm phù rể cho
tôi !...
Máu trong người tôi lại như sôi lên và không biết sự thể sẽ ra sao nếu
như Tản Viên không đột ngột xuất hiện ! Tản Viên nói nhỏ nhưng tôi
nghe như tiếng sấm :
- Tôi đồng ý điều kiện của đại đội phó !
Đại đội phó còn bất ngờ hơn cả tôi và Hùng . Việc cưới hỏi đã được
định ngày : một tháng nữa sẽ ăn hỏi, ba tháng nữa sẽ đám cưới ! Đại đội
phó tỏ ra rất hào phóng : cho Hùng về nhà mười ngày thăm bố mẹ và
thăng quân hàm cho chúng tôi từ Binh nhì lên Binh Nhất ! Tôi đưa Hùng
cả Sáu ngàn đồng – số tiền phụ cấp đầu tiên của anh Binh Nhất ! Hùng ôm
chặt lấy tôi mà khóc như trẻ con ! Tôi thì lại thấy đắng ở trong miệng
: đời lính sao mà…Tôi không dám nghĩ tiếp nữa mà chạy đi tìm Tản Viên,
hỏi cho ra nhẽ ! Lúc gặp Tản Viên, cô tỏ vẻ bình thản như không có
chuyện gì xảy ra…
- Tại sao cô lại biết chuyện chúng tôi sẽ bị điều đi Khu 4 ? Tại sao cô lại quyết định như vậy ? Tại sao?
Tản Viên từ tốn nói nhỏ :
- Anh đừng hỏi gì nữa ! Em không thể để các anh bị liên lụy vì em ! Anh không thấy anh Hùng rất tội nghiệp hay sao?
- Vậy cô đồng ý cưới ông ta thật hay sao ? ông ta có xứng đáng làm chồng cô không ?
- Đã bảo anh đừng
hỏi gì nữa ! Em không bao giờ đồng ý làm vợ ông ta, dù ông ta có là
tướng tá ! Đây chỉ là kế hoãn binh để cứu các anh !
Trời
đất ! Tôi như người đang bay lơ lửng trên không bỗng rơi bịch xuống
đất ! Cú rơi tuy rất đau nhưng đã hiểu ra đầu đuôi sự việc rắc rối này !
Trong tình thế này, hoãn binh là kế vẹn toàn nhất ! Tôi thầm thán phục
Tản Viên. Người ta nói nếu bằng tuổi nhau thì con gái bao giờ cũng
hiểu sự đời thấu đáo hơn con trai, quả nhiên không sai !
Tuy nhiên, tôi lại
phải sống trong sự chờ đợi, thấp thỏm lo âu vì ngày ngày nối tiếp nhau
qua đi rất nhanh . Hùng hết hạn nghỉ (tranh thủ - trong thời chiến
không có nghỉ phép chính thức mà chỉ linh hoạt cho lính tráng về thăm
nhà, gọi là tranh thủ, từ này về sau không còn nữa), đã trở lại đơn vị.
Nỗi lo của chúng tôi bị nhân đôi !
Trớ
trêu thay là sự đời ! Nghiệt ngã thay là số phận ! Trước ngày ăn hỏi
một ngày đã xảy ra một sự cố bất ngờ : Một tốp cường kích (máy bay ném
bom) của Mỹ từ phía Tây lén bay qua đèo Yên Ngựa (phía nam dãy núi Tản)
hòng đánh trộm Hà Nội, chúng tưởng bay sát núi như vậy sẽ tránh được
sự phát hiện của Ra-đa, nhưng chúng đã bị phát hiện và hai chiếc MIG 17
của không quân ta đã kịp thời xuất kích, đón đánh. Bị đánh bất ngờ,
tốp máy bay cường kích của Mỹ hoảng sợ tháo chạy hỗn loạn, thả bom lung
tung để nhẹ cánh. Một quả bom đã rơi xuống triền đồi chỗ Tản Viên
đang chăn bò, và thật không may, cô ta đã trúng mảnh bom, bị thương rất
nặng ! Chúng tôi đã đưa Tản Viên đến quân y viện 5 để cấp cứu. Ai cũng
nghĩ Tản Viên khó qua khỏi, còn tôi và Hùng thì vẫn tin rằng Tản Viên
không thể chết, chúng tôi luôn mồm cầu xin Bồ Tát, Như Lai, cầu xin các
ngài cho Tản Viên sống lại, nhưng cầu đến ngày thứ ba mà Tản Viên vẫn
chưa tỉnh lại ! Đại đội phó Tân thấy vậy thì lập tức tuyên bố hủy bỏ cả
đám hỏi và đám cưới ! Tôi và Hùng mừng quá, ôm lấy nhau mà không nói
được gì, lại cầu Trời, khấn Phật ! Lúc đang khấn Bồ Tát trăm tay ngàn
mắt cứu khó phò nguy cho tai qua nạn khỏi thì có tiếng nói vang lên,
như là từ trên thinh không :
- Thôi đủ rồi, các anh khỏi phải cầu khấn làm gì nữa, em đã sống lại rồi đây này !
Thì
ra là Tản Viên nói, cô ngồi dậy, nhìn chúng tôi mỉm cười, một nụ cười
hiền hậu, thánh thiện mà tôi chưa hề thấy ở bất kỳ cô gái nào! Cả tôi
và Hùng cùng trố mắt kinh ngạc rồi cùng rụi mắt nhìn lại xem có đúng là
Tản Viên đã tỉnh lại hay không? Tản Viên lại nói, tiếng nói cứ như
tiếng sáo diều vi vu:
-
Không phải là Tản Viên thì còn là ai vào đây nữa! Em được Thần Núi Tản
và cả Thần Sông Đà phò trợ nên không thể chết dễ dàng như vậy được! Em
đã tỉnh dậy từ hôm qua nhưng vẫn cứ nằm giả chết để kéo dài cái kế hoãn
binh và nghĩ xem có kế sách gì hay tiếp theo hay không, nhưng nghĩ mãi
chẳng ra, thì vừa lúc nghe các anh nói ông đại đội phó đã tuyên bố hủy
bỏ cái ý đồ quái gở đó!
-
Nếu ông ta không tự rút lui thì chúng tôi cũng bắt ông ta phải rút
lui!...- Tôi và Hùng tranh nhau nói nhưng thực ra vẫn chưa nghĩ ra cách
gì để buộc ông ta từ bỏ ý định đòi cưới Tản Viên. Tản Viên như là cũng
biết vậy nên cô lại cười cười như muốn nói:”Thôi bỏ đi, đừng nghĩ đến
chuyện này nữa!”…
* * *
Tản Viên ra viện ngay và phải ba ngày sau vết thương mới lành và lên da
non. Chúng tôi đang bàn tính làm đại tiệc tại nhà Tản Viên để ăn mừng
“tai qua nạn khỏi” thì đơn vị được lệnh cơ động. Thế là đành phải
chia tay Tản Viên…Tưởng rằng chỉ di chuyển loanh quanh qua Quốc Oai,
Tùng Thiện , Phúc Thọ rồi lại quay về Bất Bạt như mọi khi, ai ngờ đúng
chiều Ba mươi Tết năm đó, chúng tôi đươc lệnh “hành quân thần tốc” vào
tận chiến trường Khu Bốn!...
…Đời lính thời chiến là như vậy, thoắt đến thoắt đi như chim!...Đoàn
xe máy móc, khí tài của đơn vị chúng tôi hình như đã tới đất Thanh Hóa
anh hùng. Tôi ngồi trong ca-bin của xe hiện sóng mà nửa tỉnh nửa mê,
thỉnh thoảng đầu đập vào khoang cửa ca-bin là tỉnh, còn thì như đang
bơi trên sông Đà cùng với Tản Viên, cùng với câu thơ “ mật khẩu”:
Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cánh diều bay !...
Hình như tiếng anh
Lạc lái xe nói:”Yêu rồi chứ gì?Thế mà nói chỉ là bạn! Nếu đã yêu rồi
thì khổ đấy, vì đời lính thời chiến không thể hành quân với chữ
Yêu!...Hình như Giao thừa đến rồi! Đây là cái Tết thứ ba xa vợ con!...”.
Tôi nhìn ra xung quanh, tiếng pháo nổ ran khắp nơi, các phía chân trời
đều có chớp sáng nhằng nhằng, vài quả pháo sáng lủng lẳng đây đó,
trong tiếng pháo râm ran có cả tiếng bom rền !...
Sài Gòn, 2005
Đỗ Ngọc Thạch
TƯỚNG SÁT PHU - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Một
buổi sáng cuối Xuân đầu Hạ, hai chú tiểu của chùa Pháp Vân ra mở cổng
chùa thì thấy một cái bọc nhỏ đặt trong một cái hộp giấy cứng không có
nắp đậy, trong cái bọc đó là một đứa bé gái khoảng một tháng tuổi, đang
thiếp ngủ ! Mười ba năm sau, đứa bé gái bị cha mẹ bỏ vào nhà chùa đó
đã trở thành một thiếu nữ mắt phượng mày ngài, mặt trái xoan, dáng dấp
thanh tú. Hai chú tiểu ngày nào đã trở thành sư thầy, nói với nhau :
“Chúng ta làm ơn cứu mạng như thế cũng được rồi, nay nên trả đứa bé lại
cho cha mẹ nó, để nó ở lại đây tất sẽ gây họa lớn ! Cái trán cao rộng,
hơi gồ và sáng bóng, mũi thì dài sống mũi lại quá mảnh khảnh, lưỡng
quyền cao rộng nên có số sát phu, đàn ông mà dây dưa với nó tất
chết bất đắc kỳ tử !” Rồi ngay sau đó, hai sư thầy gửi cô bé cho một
vị giáo sư, nói là nó có tư chất thông minh, nhờ giáo sư kèm cặp, sau
ắt sẽ trở thành nhân tài của đất nước ! Quả nhiên, chỉ sau ba năm, cô
bé đã học xong tất cả chương trình phổ thông trung học. Các bài thi đại
học những năm trước đó, cô bé đều làm dễ dàng như ăn kẹo ! Vị giáo sư
đã hoàn tất mọi thủ tục để cô bé tham dự kỳ thi đại học tới, cô bé ắt
sẽ đỗ thủ khoa, cả nước sẽ bị một phen bất ngờ !...
Nhưng, người bị bất ngờ lại chỉ là hai ông sư thầy của chùa Pháp Vân :
Trước ngày thi một ngày, bà vợ vị giáo sư dắt cô bé trả lại cho nhà
chùa mà rằng :
-
Đứa bé này thông minh thật, đúng là Thần đồng, nhưng nó đã đem tai họa
đến cho nhà tôi : ông chồng tôi gần hết đời mới đạt được công danh,
vậy mà chỉ sau một đêm dan díu với nó đã chết thật thảm thương
! (Khóc) Sáng nay, ông ấy dậy sớm tập thể dục như mọi ngày, vậy mà
không thể trở về nhà với tôi được nữa : một chiếc xe tải to đùng đã
nghiến nát ông ấy rồi !
Hai vị sư thầy đành để cô bé ở lại chùa. Việc truy tìm tung tích cha
mẹ đứa bé vẫn chưa có kết quả. Hai vị sư thầy bàn với nhau : “Nó đã đem
tai họa đến cho người ta, vậy phải cho nó cơ hội chuộc lại tội lỗi :
cho nó đi học nghề chữa bệnh cứu người . Công, tội có thể bù đắp, hóa
giải cho nhau !” Cô bé liền được gửi đến ở phòng mạch Đông Y của một
Lương Y danh tiếng, nghe nói đã bốn đời hành nghề chữa bệnh cứu
người, cha ông đã từng thọ giáo bậc danh y Hải Thượng Lãn Ông !
Cô bé đến phòng mạch Đông Y chưa được ba bảy hai mươi mốt ngày thì bà
vợ ông Lương Y đã dắt nó đến trả cho nhà chùa mà không nói một lời !
Hai sư thầy đi tìm hiểu sự việc thì được biết : một lần đang xem bệnh,
kê đơn bốc thuốc cho con bệnh thì cô bé đi vào nói đau bụng không thể
chịu nổi. Vị Lương y đành bỏ dở công việc mà tìm cách cắt cơn đau
cho cô bé. Sau một hồi day huyệt, cô bé đã hết đau bụng nhưng vị Lương Y
đã bị cơ thể cô bé làm cho mất hồn, không thể kiềm chế được cơn sóng
tình dục cứ dâng lên cuồn cuộn. Sau cuộc giao hoan vội vàng với cô bé,
vị Lương Y chẳng còn minh mẫn để kê đơn bốc thuốc cho con bệnh, kết quả
là cái toa thuốc ấy đã giết chết con bệnh, người nhà con bệnh tức thì
vác dao đến đòi mạng, chẳng kịp ngăn cản !
Hai vị sư thầy sau khi biết chuyện thì mười phần kinh hãi ! Mặc dù hai
vị sư thầy nghiên cứu rất kỹ về thuật tử vi tướng số nhưng trong thâm
tâm họ đều không mấy tin vào những chuyện tào lao đó, chẳng qua chỉ là
trò chơi của tạo hóa ! Nhưng đến sự việc xảy ra ở phòng mạch Đông Y
này thì cả hai vị sư thầy đều run sợ trước sự huyền bí của định mệnh mà
thuật tướng số chỉ hé mở được phần nào sự huyền bí đó ! Suy nghĩ nát
nước mà hai vị sư thầy vẫn chưa biết phải cho cô bé có tướng cách dị
thường này đi đâu, chùa Pháp Vân này chưa có lệ thu nhận sư nữ mà tung
tích cha mẹ cô bé vẫn chưa thấy tăm hơi gì ? Thời gian cứ đều đặn trôi
đi từng ngày, từng ngày, nó không thể dừng lại để đợi hai vị sư thầy
nghĩ xong kế vẹn toàn, một tuần lễ trôi qua như một cái chớp mắt. Sang
ngày thứ tám, một vị sư thầy có việc phải đi Tây Nguyên. Ba ngày sau,
vị sư thầy ở nhà được báo mộng, người báo mộng lại là đích thân Bồ
Tát:”Đêm hôm trước khi đi Tây Nguyên, sư huynh con đã dại dột giao hoan
với cô bé có tướng sát phu đó. Hôm qua, xe chở sư huynh con đã lăn
xuống vực ở tỉnh Kon Tum, chiếc xe cháy rụi, sư huynh con đã bị cháy
thành than rồi! Tiếc thay, trồng cây sắp đến ngày hái quả mà lại…Con
ráng mà giữ thân đặng tu thành chính quả, đừng như sư huynh mà uổng
công mấy chục năm tu hành!”. Vị sư thầy chỉ còn biết ôm bài vị của sư
huynh mà khóc không thành tiếng!...
* * *
Khi tôi đang lang thang kiếm sống ở Sài Gòn thì bất ngờ gặp một người
bạn cũ là chuyên gia Hán-Nôm ở Hà Nội vào Sài Gòn làm việc. Khi biết
được tình cảnh đang thất nghiệp của tôi, người bạn nói :
- Giá
như ông nghe tôi, hồi còn làm ở Viện Văn học mà tranh thủ theo học một
khóa Hán-Nôm thì bây giờ tôi có thể nhận ông làm việc ở chỗ tôi. Bây
giờ phong trào tìm về cội nguồn rất rầm rộ, rất nhiều văn bia, thần
tích, gia phả…cần được biên dịch…
- Tôi không thích
nói “Giá như…”, ông không giúp được gì cho tôi cũng không sao ! – Tôi
nói cứng – Mà ông cũng chẳng phải ái ngại cho tình cảm của tôi bây giờ.
Cái số tôi nó “bèo dạt mây trôi” dài dài, tôi đã quen rồi !
Người bạn vụt nhớ ra điều gì, vội nói :
- Ông
nói tới chuyện tướng số làm tôi nhớ đến một vị sư thầy ở chùa Pháp
Vân, vừa là bà con xa vừa là học trò Hán-Nôm của tôi. Vị sư thầy này
rất giỏi tử vi tướng số, nếu ông có hứng thú, tôi sẽ dẫn ông tới chơi !
Dĩ nhiên là tôi rất hứng thú và người bạn chuyên gia Hán-Nôm liền dẫn tôi đến chùa Pháp Vân.
Khi chúng tôi đến chùa Pháp Vân, vị sư thầy vẫn chưa thôi ôm bài vị
của sư huynh mà khóc thầm ! Gặp người bạn chuyên gia Hán-Nôm và tôi, vị
sư thầy mới dứt được nỗi đau mất sư huynh đã kéo dài ba ngày ! Sau khi
kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về cô bé có tướng sát phu,
vị sư thầy nói :
- Tôi
đã được Bồ Tát báo mộng sắp thành chính quả, vì thế bằng mọi giá phải
cho cô bé đi khỏi chùa này. Tôi rất mong sư phụ và thí chủ đây giúp tôi
!
- Chúng tôi xin sẵn lòng, sư thầy cho biết giúp như thế nào ? – Tôi và người bạn Hán-Nôm cùng nói .
Vị sư thầy im lặng giây lát như lấy hơi rồi nói :
- Tôi không ngờ cái tướng sát phu
của cô bé lại hiệu nghiệm kinh hoàng như vậy. Tôi đã đành phải lấy cái
tướng cách đó ra mà đặt tên làm giấy khai sinh cho cô bé, gọi chệch đi
một chút : Sa Phi ! Tôi chợt nghĩ, cái tên đó gần giống với tên một
loại đá quí, vì thế tìm một người có tên là một loại đá quí mà gả cho
cô ta thì tai họa sẽ giảm thiểu đi nhiều, nếu người đó có lá số tử vi
gần giống với lá số tử vi của Hàn Tín thì không còn lo ngại gì nữa !
Nghe tới đó, tôi giật mình kinh ngạc vì thấy mình đáp ứng đủ cả hai
điều kiện mà sư thầy vừa nói. Tôi càng kinh ngạc hơn khi vị sư thầy
chăm chú nhìn tôi một lát rồi nói :
- Thí chủ đây đã lập lá số tử vi chưa ? Nếu chưa tôi xin làm giúp !
Tôi lấy lá số tử vi của mình ra đưa cho vị sư thầy mà nói :
- Tôi mới lập lá số này được một tháng, nhờ thầy xem lại !
Vị sư thầy đón lấy lá số tử vi của tôi, liếc nhanh qua rồi nắm chặt lấy hai tay tôi mà rằng :
- Người cứu mạng tôi đây rồi ! Hẳn là Bồ Tát đã đưa tới !
Mọi việc đã được quyết định chóng vánh như là vị sư thầy đã chuẩn bị
sẵn từ trước : vị sư thầy thuê cho tôi một căn nhà nhỏ ở vùng ven đô,
tiền trả trước một năm, ba ngày nữa tôi sẽ đem xe hoa đến đón cô dâu Sa
Phi về đó làm lễ động phòng ! Tất nhiên mọi chi phí cho tiệc cưới (gọn
nhẹ), sư thầy lo hết !...
Ngày thứ nhất, tôi làm xong cái việc khá quan trọng là tân trang căn
nhà nhỏ, nơi sẽ trở thành tổ ấm gia đình của tôi sau nhiều năm phiêu
bạt giang hồ, lăn lóc khắp rừng xanh núi đỏ cho đến biển bạc sóng cồn !
Có lẽ cái nhu cầu cần có điểm dừng đã quá mạnh khiến cho tôi không hề
cảm thấy run sợ mảy may khi phải đối mặt với sứ giả của tử thần ! Có
lúc tôi cũng tặc lưỡi mà cười thầm : “Có chết trong tay người đẹp cũng
còn hơn là chết tan xác nơi sa trường mịt mù bom đạn ! Vả lại, vị sư
thầy đã cam đoan với tôi rằng , cái tướng sát phu dù có dữ dội tới cỡ
nào cũng không hại được tôi, vì tôi đã có quý nhân phù trợ, hơn chục
lần tôi đã thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc đã khẳng định chắc chắn
điều đó !”. Quả nhiên, trong giấc ngủ ở nhà mới đêm đầu tiên, tôi đã
được Phật Tổ Như Lai hiện ra báo mộng : Ngài hiện ra trong ánh hào
quang rực rỡ, nhìn tôi bằng ánh mắt nhân từ, tuy Ngài không nói gì
nhưng đã mỉm cười với tôi ! Tôi hiểu ra ngay cái ẩn ý ở sau sự kiện này
: tôi đã có công cứu nạn người nhà Phật (tức vị sư thầy chùa Pháp Vân)
nên số phận đã mỉm cười với tôi, tôi cứ im lặng làm theo sự xếp đặt
của số phận, không nói gì cả, vì im lặng là vàng mà !
Ngày thứ hai, tôi đi thuê xe ô-tô đón dâu và một bộ complê và mua một
vài thứ lặt vặt cần dùng. Xong việc, cũng vừa tới bữa trưa, tôi vào một
nhà hàng nơi con hẻm yên tĩnh để tự thưởng cho mình một chầu no say,
đặng ngày mai bước vào cuộc chiến đấu mới đầy bí hiểm ! Vừa uống xong
li bia đầu tiên thì thật bất ngờ, Siêu – người bạn học với tôi từ năm
học lớp mười ở trường Hải An (Hải Phòng), đi vào, một mình ! Sau phút
hàn huyên tôi mới được biết : Tốt nghiệp đại học Thủy sản, Siêu về làm
việc ở Sở Thủy Sản Hải Phòng một thời gian rồi lên cơ quan Bộ, một thời
gian sau nữa làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu thủy hải sản,
hiện đang chuẩn bị nhận chức phó Tổng giám đốc của một Tổng công ty rất
lớn. Hỏi đến chuyện vợ con, Siêu rầu rĩ nói :
- Ngày
mai là ngày tao cưới vợ lần thứ hai. Nếu như vợ trước của tao đẹp như
hoa hậu thì vợ này không thua gì Thị Nở của anh Chí Phèo !
Tôi ngạc nhiên :
- Thế thì thôi đi, như mày lấy vợ đẹp có khó gì ?
- Không
thể thôi dễ dàng như mày nói thế được ! – Siêu nói thong thả - Cô
nàng tuy xấu mã nhưng lại tốt tướng, phải nói là quý tướng, đó là
tướng “vượng phu ích tử” : nàng vừa có ngọc đới yêu vi vừa có song long nhiễu nguyệt,
người như thế trong ngàn người mới có một ! Hơn nữa, cha và mẹ nàng
đều có thế lực cực mạnh ở trong giới kinh doanh và quan trường !
-
Thế thì còn rầu rĩ cái nỗi gì ! Cứ cưới cô vợ Thị Nở ấy đi, khi nào
thích “ăn phở” thì một cú điện thoại là có liền, mà “phở” bây giờ được
“nâng cấp” tới cỡ siêu người mẫu, hoa hậu, ngôi sao điện ảnh…thậm chí
có cả “hàng ngoại” với đủ các màu da, các quốc tịch ! – Tôi nói như là
rất sành sỏi trong đề tài này !
Siêu như là không hứng thú với cái đề tài “phở”, hỏi sang chuyện làm
ăn của tôi và tỏ ra ái ngại cho cảnh ngộ hiện tại của tôi. Siêu nói :
- Chịu khó chờ một
thời gian nữa, khi nào tao nhận chức, tao sẽ lấy mày về làm việc ở
Phòng thông tin – tuyên truyền, chắc là mày sẽ làm tốt ! Còn chuyện vợ
con thì sao ?
Khi tôi đưa tấm hình của Sa Phi cho Siêu xem và nói ngày mai sẽ là ngày đón dâu, Siêu kinh ngạc thốt lên :
- Tiên nữ giáng trần ! Không thua gì tứ đại mỹ nhân bên Tàu ngày xưa ! Cô gái này có vẻ đẹp bế nguyệt của Điêu Thuyền !
-
Chính xác! – Tôi thừa nhận – Dung nhan thì hao hao như Điêu Thuyền,
nhưng tư chất thì đặc biệt thông minh, trí nhớ thật siêu phàm. Đọc sách
chỉ một lần là hiểu ngay và nhớ hết, có thể đọc ngược Truyện Kiều
không sai một chữ! Cô ta đã tự học ba ngoại ngữ Anh, Pháp và Trung Hoa!
Tuy không học qua trường nào nhưng có thể giải nhanh chóng tất cả các
đề thi đại học!...
Những câu chuyện về cô gái Sa Phi đã thực sự cuốn hút anh bạn Siêu của tôi, nhất là chuyện sát phu
kỳ lạ và kinh hoàng! Khi chúng tôi đã uống hết một thùng bia Heineken,
Siêu nói “xì-tốp” và kêu một ấm trà Thái rồi châm rãi nói:
- Mày phải hủy bỏ ngay đám cưới này! Để rồi tao sẽ làm mối cho mày một người vợ có tướng cách cực quý, vừa vượng phu ích tử vừa rất xinh đẹp, lại có chức danh Phó Giám đốc đàng hoàng !
-
Dù có là Nữ hoàng bây giờ muốn cưới tao, tao cũng không ham. Đã nhận
lời người ta rồi, mọi việc đã hoàn tất, không thể thất tín được, nhất
là với người nhà Phật! Hình như trong chuyện này, cả Phật Tổ Như Lai và
Quan Âm Bồ Tát đều nhúng tay vào! – Tôi nói to như quát.
Hai
người hai quan niệm khác nhau thật khó mà có thể đi đến một sự hòa
hoãn. Những tưởng cuộc tranh luận của chúng tôi sẽ dẫn đến xung đột
vì chúng tôi vốn cùng nóng tính và từ thời học trò vốn chẳng ai chịu
thua ai. Song, anh bạn Siêu của tôi tỏ ra bình tĩnh và sành đời hơn.
Không hiểu sao, Siêu bỗng đưa cho tôi cái điện thoại di động mới cứng
và nói :
-
Cái điện thoại di động này tao mua cho mụ vợ, nhưng hôm nay gặp lại mày
ở đây, tặng mày luôn. Mày hãy gọi cho một người thân nào đó bất kỳ mời
mai đến dự lễ cưới của mày, nếu người đó nhận lời ngay thì mọi điều
mày nói từ nãy đến giờ đều đúng ! Còn nếu mày gọi tiếp cho hai người
nữa mà không ai nhận lời thì mày phải nghe tao, hủy đám cưới !
Tôi nhận cái điện thoại di động từ tay Siêu, ấn ngay số máy điện thoại
của bà chị cả. Vừa nghe thấy giọng nói của tôi, bà chị đã nói ngay,
giọng mếu máo :
- Mẹ
ốm nặng, tình hình rất nguy kịch, cậu ra Hà Nội ngay, chị sẽ ra sau vì
cả ba đứa cháu của cậu đều đang sốt ói mửa lung tung !...
Nhận được tin dữ, tôi bảo Siêu đưa tôi đến chùa Pháp Vân ngay. Vị sư
thầy chấp nhận quyết định chớp nhoáng của tôi : tôi phải đi Hà Nội
ngay, Siêu sẽ thay tôi giải quyết vụ cô gái tướng sát phu !...
* * *
Ra Hà Nội, tôi chỉ được báo hiếu mẹ một tháng thì mẹ tôi qua đời. Trước
khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ tôi chỉ đọc cho tôi nghe một câu ca dao cổ :
“Con ơi, nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi !”
Sau
cái chết của mẹ, mọi suy nghĩ của tôi về sự đời như là có sự thay đổi
rất lớn : Nếu như trước đây tôi “coi trời bằng vung”, sẵn
sàng “bán trời không văn tự” thì bây giờ lúc nào tôi cũng cảm thấy sợ
hãi, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ vô cùng, cô đơn vô cùng ! Tệ hại hơn là
trong giấc ngủ thường có ác mộng : cảnh bom đạn nơi chiến trường ngày
xưa cứ hiện về không ngớt, và kết cục những cơn ác mộng ấy là một chùm
bom cứ lao thẳng vào người tôi, có lần là cả một tốp hơn chục chiếc máy
bay “Thần Sấm”, “Con Ma” cứ nhằm tôi mà lao tới cùng với những âm
thanh gầm rú ghê rợn !...Và cuối cùng tôi đã rút ra phương châm xử thế :
tránh mọi va chạm với người đời và tránh xa mọi tai ương có thể xảy ra
! Để làm được như thế, không có cách nào tốt hơn là làm theo các ẩn sĩ
thời xưa !
Biết tôi có ý định tìm chỗ ở ẩn, Lò Giàng Páo – cậu học sinh cũ của
tôi khi tôi dạy ở trường dự bị đại học Dân tộc Trung ương – nói sẽ dẫn
tôi lên quê hương Hà Giang của cậu núi non trùng điệp, rất nhiều chỗ
sơn thủy hữu tình có thể dựng Am cỏ như người xưa ! Páo là người Lô Lô,
rất nhiệt tình nên chỉ sau một tuần, tôi đã làm xong thủ tục chuyển
vùng . Chỉ chờ Páo xin nghỉ phép là thầy trò chúng tôi có thể lên đường
…
Sáng hôm ấy, tôi đang thơ thẩn ở Viện Bảo tàng dân tộc để chờ Páo thì
bất ngờ gặp lại Giàng A Thạc – học cùng với tôi hồi lớp Năm ở trường
Lương Ngọc Quyến – Thái Nguyên . Khi biết ý định muốn lên rừng của tôi,
anh chàng họ Giàng người H’mông cười chảy nước mắt rồi kéo tôi đi,
vừa đi vừa nói :
-
Tao có thằng bạn rất thân, hóa ra lại là bạn học với mày hồi lớp Mười ở
Hải Phòng . Mày nhớ thằng Đông chứ, tốt nghiệp trường Đại học Mỏ - Địa
chất, nó về làm ở một đoàn Địa chất ở Thái Nguyên, tao với nó chơi với
nhau từ đó. Rồi nó được đi làm luận án tiến sĩ ở Nga, rồi về làm bên
Dầu khí. Lần này nó rủ tao về Vũng Tàu. Chắc chắn là mày gặp nó là sẽ
bỏ ngay ý định lên rừng mà sẽ đi xuống biển với chúng tao !
Quả nhiên khi gặp Đông, tôi bị Đông thuyết phục đi Vũng Tàu với Đông
và anh bạn người H’Mông, và điều đặc biệt là Đông sẽ nhờ tôi làm quản
lý trang trại của Đông ở Đồng Nai – như vậy là vẫn có chỗ cho tôi dựng Am cỏ
làm Ẩn sĩ. Thì ra Đông làm công tác Thanh tra của ngành Dầu khí. Đông
kể cho tôi nghe khá nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” của ngành
Dầu khí và lấy làm tiếc rằng tôi không còn làm báo nữa vì nếu còn làm
báo sẽ được có những tài liệu “độc nhất vô nhị” về những vụ tham nhũng
động trời mà Đông đang thu thập chứng cớ. Nếu như trước đây, hẳn là tôi
sẽ bám riết lấy Đông mà khai thác tài liệu, nhưng giờ thì tôi đã “tắt
lửa lòng”, không muốn quan tâm đến thế sự nữa, điều mà tôi quan tâm ở
Đông là cái trang trại của Đông ở Đồng Nai. Vì thế, sau ba ngày tắm
biển sảng khoái ở Vũng Tàu, tôi thúc giục Đông đưa tôi đến trang trại…
Trang trại của Đông thật là trên cả tuyệt vời, nếu tả cảnh thuần túy
và thật cô đọng, ngắn gọn cũng phải hết năm chục trang sách khổ 13x19.
Còn nói về tiềm năng phát triển kinh tế của trang trại thì cũng không
dưới năm mươi trang! Tuy nhiên, điều thu hút sự chú ý của tôi ở cái
trang trại này không phải là thiên nhiên kỳ thú mà là những người đang
làm việc ở đây, mà đáng chú ý nhất là một người đàn bà trạc tứ tuần có
tên gọi là Sái phu nhân. Tôi té ngửa khi chợt nhân ra khuôn mặt của Sái
phu nhân rất giống cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân! Chẳng lẽ đó chỉ là
sự giống nhau ngẫu nhiên? Nhưng sau khi tìm hiểu thì sự ngờ vực của tôi
đã có lời giải: bà Sái phu nhân chính là mẹ đẻ của cô gái Sa Phi! Và
cái tên Sái phu nhân cũng do chữ “sát phu” mà ra: từ năm mười bảy tuổi
đến năm bốn mươi tuổi, bà ta đã mười lần lên xe hoa và cả mười tân lang
đều chết “bất đắc kỳ tử”, điều đáng ngạc nhiên là cả mười tân lang đều
là quan chức cỡ giám đốc, Tổng giám đốc, trong đó có hai vị thuộc
ngành du lịch, hai vị ở ngành Ngân hàng, hai vị ở ngành Dầu khí, hai vị
ở ngành Thủy hải sản và hai vị ở ngành Thương mại! Với “chiến tích”
đó, bà Sái phu nhân còn có tên gọi “Thập đạo Nữ tướng quân”, đó là giới
sử học gọi còn cánh nhà báo thì gọi là “Dũng sĩ diệt giám đốc”!...
Khi tôi nói rằng tôi đã gặp cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân thì bà Sái phu nhân bỗng khóc rống lên một hồi rồi nói:
-
Tôi thật đáng chết khi bỏ con bé vào chùa Pháp Vân!... Con ơi, con hãy
tha tội cho mẹ! Sau đó ba năm, tôi có nhờ người đến tìm nhưng không
thấy, tính đến nay đã gần hai mươi năm trời, không biết con tôi thế
nào? Nếu ông biết con tôi ở đâu dẫn nó về đây với tôi, tôi xin tình
nguyện làm tôi tớ cho ông mãi mãi!...
Vốn
có tính dễ mủi lòng trước những lời cầu xin đẫm lệ, tôi nhận lời đi
tìm Sa Phi, vả lại tôi cũng có chút “duyên nợ” với cô gái này! Tôi lập
tức đi tìm Siêu. Có lẽ đến nhà cô gái xấu như Thị Nở nhưng có tướng “vượng phu ích tử” mà chắc là Siêu đã cưới làm vợ thì sẽ gặp Siêu. Nhưng khi tôi đến thì cô Thị Nở nói với tôi:
-
Anh Siêu chê em xấu xí quá nên đã hủy hôn mà cưới cô gái có cái tên
“Sa Sát” gì đó rồi! Nghe nói họ đang hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, anh
lên đó sẽ gặp ngay!
Tôi đến ngay Công ty của Siêu thì họ cũng nói vậy và cho tôi số máy di
động của Siêu. Tôi gọi ngay cho Siêu thì người trả lời lại là tiếng Sa
Phi:”Em là Sa Phi đây! Anh Siêu của em đang ở đâu hả ? Chúng em đang ở
thác Đăm Bri, anh ấy vừa rơi xuống thác cách nay năm phút, đội cứu hộ
đang tìm nhưng chưa thấy xác!...”. Không biết cô gái Sa Phi còn nói gì
nữa không mà tôi chỉ nghe thấy tiếng thác dội ầm ào!...
TP.HCM, 2005-2009
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét