Thói
quen thứ ba là đã đến Hồ Gươm thì thế nào cũng phải ăn kem Bờ Hồ, bất kể
mùa hè hay mùa Đông. Cụm từ “Kem Bờ Hồ” để nói về hai vị trí: Kem que
bán ở cái Ki-ốt nằm trên bãi đất trống ở góc có hai đường cắt nhau là
đường Lý Thái Tổ và đường Tràng Tiền và Kem Cốc (Ly) bán ở trong Nhà
Thủy Tạ. Tôi xin đưa ra nhận xét về Kem Bờ Hồ rằng: Tính từ năm 1954
(năm tôi về sống ở Hà Nội) trở lại đây, chất lượng ngày càng kém đi. Mỗi
lần từ phương xa trở về Hà Nội, tôi đều đến Bờ Hồ ăn Kem và đều phải
nuối tiếc cái cảm giác tuyệt vời khi “ăn Mùa Đông” đã bị mất dần độ
khoái cảm!...
Lúc còn nhỏ, việc đi chơi
Hồ Gươm là một việc quan trọng, phải được bố trí, sắp xếp trước bởi nhà
tôi ở khá xa Hồ Gươm, và lúc đó, đi dạo công viên hoặc đi dạo Hồ Gươm
là hình thức giải trí “Cao cấp” của tầng lớp “Quý tộc” hoặc giới ăn
trắng mặc trơn nhàn hạ. Tuy nhiên, ngày Chủ Nhật, ngày Lễ, Tết thế nào
anh chị em chúng tôi cũng làm một chuyến đi chơi Bờ Hồ. Đối với trẻ con
lúc ấy (cuối những năm 1950), Bờ Hồ còn có món đặc sản rất hấp dẫn nữa
là “Thịt Bò khô”, bán trên cái tủ cơ động của mấy người Việt gốc Hoa,
thường tụ tập ở gần bến Xe Điện Bờ Hồ…
Không hiểu tôi có cơ
duyên gì với Hồ Gươm mà có tới ba lần sống gần Hồ Gươm và Hồ Gươm trở
thành một phần quan trọng trong Ký ức của tôi về Hà Nội…
Lần thứ nhất là vào tháng
8 năm 1966, tôi có giấy gọi vào Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, (lúc đó đã sơ tán về tận huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nhưng vì
bố tôi muốn tôi vào Trường Đại học Y Dược Hà Nội, tôi lại không nghe
theo nên ông đã giận mà xé giấy gọi của tôi đi, đồng thời không cấp “Lộ
phí” cho tôi đi Thái Nguyên! Không còn cách nào khác, tôi phải đi làm
thuê kiếm tiền và rất may cho tôi, sau khi làm một giấc ngủ ngon lành
trên băng ghế đá ở góc Bờ Hồ, đối diện nhà hàng Phú Gia ở bên kia đường
Lý Thái Tổ, tôi tính vào nhà hàng này làm một bữa no cho biết mùi “Nhà
giàu” (Phú Gia) thì thấy một bà già đi bộ bị một người đi xe mô-by-lét
(xe máy tay ga loại nhẹ khá phổ biến ở Hà Nội lúc đó) quệt phải người,
ngã lăn quay giữa đường, tôi liền đỡ bà cụ dậy và đi về phía nhà hàng
Phú Gia. Vừa tới trước cửa nhà hàng Phú Gia thì có một người đàn ông
trung niên đi từ trong nhà hàng ra, nhìn thấy tôi dìu bà cụ tới thì giật
mình ào tới, hỏi han rối rít…Thì ra ông ta là đầu bếp trong nhà hàng
Phú Gia, sau khi biết rõ tình cảnh và nguyện vọng của tôi, đã cho tôi
vào làm phụ bếp và tôi cũng xin được ngủ đêm tại Nhà hàng.
Lần thứ hai là khi tôi
còn đang học tại Khoa Toán ĐHTH (lần thứ hai, sau khi đi lính về), tôi
thường về nhà người bạn ăn ngủ, ở ngay đầu phố Cầu Gỗ, đối diện bến xe
điện Bờ Hồ.
Lần thứ ba là khi tôi làm
việc (và ăn ngủ tại phòng làm việc) tại Viện Văn học, ở phố Lê Thái Tổ,
không sát Hồ Gươm nhưng cũng chỉ bước vài bước qua phố Hàng Dầu là tới
Hồ Gươm.
Truyện ngắn Quanh Hồ Gươm này chủ yếu nói về ba lần sống bên Hồ Gươm đó!...
2.
Từ lúc được sinh ra
đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái Chết (mặc dù đã phải đối mặt với
không ít hiểm nguy), cho nên tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy có người tự
tìm đến cái Chết (tự tử) và không hiểu tại sao họ lại muốn chết?
Một buổi chiều bình
lặng, khoảng bốn, năm giờ, tôi vừa đi dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tính
vào cầu Thê Húc ngắm cảnh hoàng hôn quanh hồ, vừa đặt chân lên cầu thì
thấy ở giữa cầu, có một người vừa nhảy xuống hồ. Tôi chạy lại, ngó xuống
thì thấy đó là một người đàn bà, đầu còn ló trên mặt nước, hai tay đập
nước loạn xạ! Tôi liền nhảy xuống, tóm tóc người đàn bà lôi vào
bờ!...Thì ra chị ta chính là phục vụ bàn của nhà hàng Phú Gia, nơi tôi
đang làm phụ bếp! Khi nhận ra tôi, chị ta nói: “Chú cứu tôi làm gì! Tôi
đã bị lừa, bị cướp đi cái quý giá nhất của người con gái, còn sống làm
gì nữa?” Tôi bảo: “Chị bị lây bệnh thất tình của các tiểu thư đài các
trong tiểu thuyết ái tình rồi! Không có cái gì quý giá bằng sinh mạng!
Chị hãy quên “chuyện lừa đảo” ấy đi, nó cũng chỉ như người ta bị mất
trộm mà thôi! Nếu có bản lĩnh thì nghĩ cách báo thù, cho kẻ Sở Khanh kia
một bài học là xong! Đó là cách nghĩ của người lao động chúng ta!”. Chị
ta suy nghĩ một lúc thì thở dài rồi nói: “Cậu còn trẻ tuổi mà sao nghĩ
sự đời rành mạch quá, tôi sẽ nghe theo cậu! Nhưng tôi phải nhờ cậu bày
cho một mưu kế để trả thù thằng cha Sở Khanh kia, hắn thường đến ăn ở
nhà hàng Phú Gia đó!”…Tôi liền bày cho chị ta một mẹo nhỏ trong “Tam
thập lục kế”.
Ba ngày sau, chị phục vụ
bàn gặp tôi nói: “Mẹo của anh hay quá, nhưng liều thuốc mê tôi cho vào
ly rượu của hắn lại lấy nhầm gói thuốc độc, nên hắn đã chết luôn rồi!
Bây giờ phải làm sao?” Tôi nói ngay: “Thì kéo hắn ra khỏi cái buồng
Thuyền trưởng rồi thả xuống sông nhờ Long Vương phán xử!” (gã Sở Khanh
Kia là Thuyền trưởng một con tàu vận tải đường sông). Thời gian cứ bình
thản trôi đi mà không thấy chị phục vụ bàn nói gì, chắc không ai điều
tra về cái chết của gã Thuyền trưởng vì điều tra làm sao khi trong phòng
Thuyền trưởng của gã có rất nhiều dấu vết và hiện vật của rất nhiều cô
gái khác nhau và điều đặc biệt là người ta còn tìm thấy trong một cái
thùng giấy các-tông có tới ba chục bộ đồ lót của ba chục cô gái khác
nhau!...Thì ra gã Thuyền trưởng là một “Yêu râu Xanh” đã làm hại đời
biết bao cô gái dại dột! Lão ta chết cũng đáng đời!...
Một tuần sau nữa, chị
phục vụ bàn cưới chồng, chồng là cửa hàng trưởng một cửa hàng ăn uống
khác, thường qua lại Phú Gia. Sau khi giới thiệu tôi là ân nhân cứu mạng
trong vụ nhảy cầu Thê Húc, người chồng liền đưa tôi một món tiền lớn
gọi là ủng hộ “Sinh viên nghèo” làm lộ phí lên Đại Từ, Thái Nguyên nhập
học!...”. Tôi cảm tạ vô cùng vì tính ra cho đến lúc đó, tôi làm phụ bếp ở
nhà hàng Phú Gia đã gần một tháng mà vẫn chưa để dành được đồng nào vì
cứ mỗi tuần lĩnh tiền xong, tôi lại vào Nhà Sách Tràng Tiền và mê mẩn
thế nào mà mua sách hết số tiền công mới được nhận!...
3.
Trong thời gian ở
nhà anh bạn ở phố Cầu Gỗ (gọi là phố Cầu Gỗ nhưng tôi chẳng thấy có cái
cầu bằng gỗ nào?), tôi cũng thường xuyên đi dạo quanh Hồ Gươm và cũng
thường lên cầu Thê Húc bởi mỗi khi tới cầu Thê Húc là lại nhớ đến vụ
nhảy cầu năm xưa của chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia. Hôm ấy, tôi vừa
đặt chân lên cầu Thê Húc thì hệt như cái hồi năm 1966, tôi vụt thấy ở
giữa cầu có người vừa nhảy xuống hồ! Tôi lại nhảy xuống và tóm tóc nạn
nhân lôi vào bờ. Và tôi thật sự kinh ngạc khi nạn nhân lại chính là
người phụ nữ đã nhảy cầu năm năm trước, tức chính là chị phục vụ bàn nhà
hàng Phú Gia ngày xưa!... Chị ta cũng kinh ngạc khi nhận ra tôi rồi òa
khóc, hồi lâu mới nói: “Chồng tôi bây giờ nó có nhân tình trẻ đẹp, nó
không còn ngó ngàng gì đến vợ con nữa! Vậy thì tôi sống mà làm gì? Mà
tại sao lại là anh? Anh cứu tôi mà làm gì?” Tôi nói: “Sao chị cũng không
đi kiếm nhân tình giống như ông ấy? Chị không thể chịu thua ông ấy
được, chị không biết câu “Ông ăn chả bà ăn nem” sao? Việc gì mà lại dại
dột đi tìm cái chết?” Chị ta nghe nói vậy thì như là bừng tỉnh sau cơn
mê ngủ, sau đó sửa sang lại nhan sắc, để trái tim hòa cùng nhịp sống!
Chẳng mấy chốc ong bướm lượn lờ quanh mình, chỉ quờ tay ra là bắt được
nhân tình, nhân ngãi! Từ đó mải mê với những cuộc tình gió trăng, chị ta
quên luôn chuyện người chồng phụ bạc!...
Người bạn tôi ở Cầu Gỗ
cũng đi lính với tôi một đợt năm 1966, học ở Khoa Lý, lại trúng tuyển
vào Không quân, được sang Liên Xô học lái máy bay nhưng sau đó do sức
khỏe có vấn đề nên lại trở về trường cùng một đợt với tôi, lại học ở
khoa Lý. Người bạn này rất quan tâm đến cuộc sống của bạn bè và thường
khuyên tôi nên cưới vợ cho ổn định cuộc sống. Một hôm, anh dẫn tôi đến
nhà một người quen, trên đường đi, anh nói: “Tôi có người bà con họ hàng
xa, đã một đời chồng, hiện sống với cô con gái bốn tuổi, nhà cửa đàng
hoàng, làm việc ở một cửa hàng ăn uống, không lo đói! Tôi đã nói chuyện
về ông với chị ta, cơ bản là xong rồi, chỉ còn ở phần của ông nữa mà
thôi!”. Nhưng khi chúng tôi tới nhà người họ hàng của anh bạn thì người ở
trong nhà là chủ nhà mới, người này nói chị chủ nhà cũ (tức người bà
con với anh bạn tôi) đã bán nhà cho anh ta được ba ngày nay và hình như
đã vào Sài Gòn rồi! Anh bạn tôi nghe nói vậy thì lẩm bẩm: “Đúng là cuộc
sống luôn vận động nhanh và mạnh hơn ta nghĩ!” Còn tôi thì sực nhớ ra
rằng cách đây một tháng, tôi đã đưa chị phục vụ bàn ở chân cầu Thê Húc
về chính ngôi nhà này. Thì ra người bà con họ hàng xa mà anh bạn tôi
định giới thiệu cho tôi lại chính là người đã hai lần nhảy cầu Thê Húc
để tìm cái chết! Lần này chị ta đi vào phương Nam xa xôi ngập nắng, chắc
sẽ là điều tốt bởi từ lâu chị ta thường hay nói câu: “Tôi muốn đi thật
xa, đến một nơi nào đó không biết tôi là ai, tôi sẽ làm lại từ đầu!”.
Tôi thường nghe câu nói này ở khá nhiều người và tôi luôn nghĩ, sao
người ta không “làm lại từ đầu” ở ngay nơi đã sống, đã quen thuộc?
4.
Tám năm sau, tôi về
làm việc ở Viện Văn học, ăn ngủ ngay trong phòng làm việc ở 20 Lê Thái
Tổ, coi như cũng là ở cạnh Hồ Gươm. Ngày nào tôi cũng đi dạo quanh Hồ
Gươm ít nhất là ba lần: sáng chạy bộ quanh Hồ Gươm hai vòng, trưa đi tới
Thư viện Quốc Gia ở phố Tràng Tiền cũng phải qua Hồ Gươm và khoảng Mười
giờ đêm thường đi dạo quanh Hồ Gươm vì đọc sách và viết bài gì đó xong
thì… đói!
Có lẽ thời gian từ nửa
đêm về sáng ở quanh Bờ Hồ là có nhiều chuyện nhất với đủ các sắc thái
tình cảm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ rút ra hai, ba chuyện có liên quan
tới đề tài của Truyện ngắn này!
Một hôm, như mọi ngày,
tôi vừa viết xong một bài tiểu luận bắt buộc thì đã mười một giờ đêm.
Bụng đói cồn cào, tôi liền tới Phở Thìn tự thưởng cho mình một tô đặc
biệt. Ăn được nửa tô thì có một người thiếu phụ khoảng hơn năm chục tuổi
bước vào, ngồi xuống bàn cạnh bàn tôi. Bà ta lặng lẽ ăn phở, bình tĩnh,
thong thả … Khi ăn xong tô phở, tôi nhìn lại người thiếu phụ và bỗng
nhận ra bà ta chính là người đã hai lần nhảy từ cầu Thê Húc xuống Hồ mà
tôi đã nói trên. Tôi định hỏi chuyện bà ta nhưng lại nghĩ, “Trời đánh
còn tránh miếng ăn”, người ta đang ăn không nên làm phiền và lỡ ra nhận
lầm người thì sao? Tôi liền ra khỏi quán phở và đi về phía cầu Thê Húc.
Không có ai trên cầu. Tôi đi vào cầu và khi tới giữa cầu thì ngồi xuống,
dựa lưng vào thành cầu. Gió nhẹ thổi, không khí mát lạnh khiến cho tôi
có cảm giác buồn ngủ và cái ngủ ập tới từ lúc nào!...
Tôi đang mơ màng với
những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn thì nghe có tiếng nói rì rầm: “Có ai
đang ngồi trên cầu thế này? Đúng chỗ của chúng ta!”, “Đệ tử Cái Bang chứ
còn ai nữa! Mặc kệ người ta! Chúng ta tiến hành đi!”, “Nào, ba chúng ta
cầm chặt tay nhau. Đào nói trước đi!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Đào,
18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, vì thi trượt Đại học mà bị bố mắng
nhiếc thậm tệ rồi đuổi khỏi nhà! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân
Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Cúc, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp
12A1, bị bạn trai bỏ rơi rồi lại bị thầy giáo Chủ nhiệm cưỡng bức, có
thai đã ba tháng! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa
Thần Rùa, em là Hoa Lan, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, em không thể
học được vì khó quá, mà bố mẹ cứ bắt em học. Em bỏ nhà đi hoang nhưng
đi hoang thì đói và rét, lại không có chỗ ngủ. Vậy em xin xuống làm nô
tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”. Tôi nghe các cô bé nói khá rõ nhưng muốn mở
mắt ra nhìn mà không được, muốn đứng dậy mà đôi chân như không phải của
mình! Tôi thoáng nghĩ, đây hẳn là một vụ tự tử tập thể, vậy phải ngăn
lại ngay! Tôi định la to “Dừng lại!” nhưng mồm lưỡi cũng như là không
điều khiển được! Rồi có tiếng “ùm” rất lớn và nước từ dưới hồ văng lên
người tôi như một cơn mưa bóng mây! Vừa ngớt “cơn mưa bóng mây”, mắt tôi
mở ra được và nhìn rõ mọi vật xung quanh thì thấy người thiếu phụ ở
quán Phở Thìn ban nãy xuất hiện và nói: “Chào cậu! Cậu bị “Đóng băng”
rồi, chỉ nghe chứ không cử động gì được! Từ trong quán Phở Thìn, tôi đã
nhận ra cậu, những tưởng cậu sẽ lại ngăn cản tôi xuống Thủy Cung, nhưng
lần này thì cậu bị “Đóng băng”, chẳng thể làm gì được đâu! Cậu muốn biết
tại sao tôi lại muốn chết chứ gì? Bởi vì thằng “Bồ” của tôi nó thật
táng tận lương tâm, sau khi “no xôi chán chè”, nó bán cả hai mẹ con tôi
cho một “ổ Nhện” ở tận bên Campuchia! Nói sao hết nỗi tủi nhục ê chề,
con gái tôi đã mất tích! Tôi không thể bỏ xác nơi đất khách quê người
được, tôi phải trở về lòng Hồ Gươm, nơi có người mẹ trẻ của tôi đã an
nghỉ từ thế kỷ trước!” Tôi thoáng nghĩ, thì ra người mẹ của bà ta cũng
đã trầm mình nơi đây, hèn chi cứ gọi con gái hoài! Tôi định nói lời từ
biệt với người thiếu phụ nhưng bà ta đã nhảy xuống hồ từ lúc nào, nước
hồ lại văng lên người tôi như cơn mưa bóng mây!
*
Mười năm sau,
tôi mới có dịp trở lại Hà Nội sau những năm dài phiêu bạt giang hồ. Đêm
hôm ấy, tôi ra Hồ Gươm và vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì thấy một
thiếu nữ chưa tới tuổi đôi mươi đang đứng khóc giữa cầu. Cô gái vừa khóc
vừa nói nên nghe không rõ lắm, khi tôi lại gần mới nghe được rõ đoạn
cuối: “…Mẹ ơi, con chưa thể xuống với mẹ được vì chưa tìm thấy kẻ thù
của mẹ con mình! Con xin hứa là sẽ tìm bằng được dù nó có phép thăng
thiên, độn thổ hay tàng hình!...Mẹ hãy phù hộ cho con, mẹ ơi!...”. Tôi
đi sát tới cô gái thì giật mình kinh ngạc vì cô ta giống người thiếu phụ
đã ba lần nhảy xuống hồ từ cầu Thê Húc như hai giọt nước!
Sài Gòn, tháng 11-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét